Minh
Cường
Sài
Gòn đã được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam đổi tên thành TP. Hồ Chí Minh từ ngày
2/7/1976, cách đây đã hơn 30 năm, còn hòn ngọc Viễn
Đông, phụ danh của Sài Gòn cũ đã mất dạng từ 1939,
khi nước Pháp sa vào Thế chiến thứ II và không còn thì
giờ nhắc đến nữa.
Vì
vậy thử tìm xem cái "hòn ngọc Viễn Đông", một
thời từng là phụ danh của Sài Gòn cũ, thực chất là
gì.
Nguyên
địa danh Sài Gòn, theo cụ Vương Hồng Sển thì đã là
một mớ bòng bong (Tuyển tập Vương Hồng Sển - Sài Gòn
năm xưa - NXB Văn học - 2001 - Nguyễn Q. Thắng sưu tầm,
tuyển chọn, giới thiệu). Xuất xứ của địa danh Sài
Gòn cho đến nay vẫn là một bí ẩn chưa được giải mã
một cách rành mạch. Ngay bây giờ, viết: Sài gòn, Sàigòn,
Sài Gòn, hay SàiGòn, cách nào cho đúng thì các nhà ngôn
ngữ cũng chưa có lời chỉ bảo.
Nhưng
dù sao cũng khẳng định được Sài Gòn là một địa
danh gốc Việt, quá trình hình thành, lịch sử thành văn
ghi chép khá rõ:
1698:
Chúa Nguyễn sai Nguyễn Hữu Cảnh kinh lý miền Nam... cho
lập Phủ Gia Định và hai huyện Phước Long và Tân Bình.
Vùng Nam bộ được sáp nhập vào cương vực Việt Nam.
1790:
Nguyễn Ánh cho xây thành Bát Quái (thành Quy), làm trụ sở
cho chính quyền mới. Gia Định thành đổi thành Gia Định
kinh.
1835:
Vua Minh Mạng cho phá thành Quy, xây thành Phụng.
1859:
Ngay sau khi chiếm được thành Gia Định, người Pháp gấp
rút quy hoạch Sài Gòn thành một đô thị lớn phục vụ
cho mục đích khai thác thuộc địa... Rất nhanh chóng, các
công trình quan trọng của thành phố như Dinh Thống đốc,
Phủ Toàn quyền... được thực hiện. Sau hai năm xây
dựng, bộ mặt Sài Gòn hoàn toàn thay đổi.
1861:
Địa phận Sài Gòn được giới hạn một bên là rạch
Thị Nghè và rạch Bến Nghé với một bên là sông Sài
Gòn cùng con đường nối liền chùa Cây Mai, với những
phòng tuyến cũ của đồn Kỳ Hòa.
1862:
Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông: Gia Định, Định Tường,
Biên Hòa.
1867:
Chiếm nốt ba tỉnh miền Tây: Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.
Cướp
xong ba tỉnh miền Tây, thực dân Pháp đơn phương tuyên
bố sáu tỉnh Nam kỳ là lãnh địa của Pháp, cho Nam kỳ
hưởng quy chế thuộc địa với chính quyền thực dân
đứng đầu là một thống đốc người Pháp.
1874:
Ngày 15/3, Tổng thống Pháp, Jules Grévy ký sắc lệnh thành
lập thành phố Sài Gòn.
Trong
suốt thời kỳ Pháp thuộc, Sài Gòn trở thành trung tâm
quan trọng không chỉ hành chính mà còn kinh tế, văn hóa,
giáo dục của cả Liên bang Đông Dương, được mệnh
danh là "hòn ngọc Viễn Đông" hay "Paris phương
Đông". (Theo Wikipédia)
Như
vậy là thực dân Pháp, ngay sau khi ngang ngược dùng vũ
lực chiếm đất Sài Gòn (trước Hòa ước Giáp Thân 25
năm) đã vội vã xây dựng ngay ở đây một thành phố
thuộc địa, làm bàn đạp tiếp tục xâm lược nước
ta.
Cũng
theo cụ Vương, sở dĩ người Pháp chọn tên Sài Gòn cho
dễ đọc vì Bến Nghé, người Pháp phát âm thành Pingeh,
đọc khó hơn. Từ khi xuất hiện mấy ông mũi lõ mắt
xanh, mọi việc cứ lộn tùng phèo lên hết cả.
Sài
Gòn là một thành phố Pháp mang tên Việt, thực chất là
một bàn đạp để thực dân Pháp đứng chân, tiếp tục
tiến hành âm mưu cướp nước. Mười năm sau, âm mưu của
Pháp hoàn thành, nhà Nguyễn buộc phải ký với quân xâm
lược Hòa ước Giáp Thân (1884, còn gọi là Hòa ước
Patenôtre), chính thức đầu hàng, cam tâm chấp nhận thân
phận một xứ sở thuộc địa, một dân tộc nô lệ.
Cái
thời được coi là "hòn ngọc" ấy, Sài Gòn rất
nhỏ. (Năm 1885, kiểm tra dân số Pháp kiều tại Sài Gòn,
đếm được vẻn vẹn năm trăm bảy mươi bảy trự (577)
trong số đó tám mươi thuộc phái đẹp (Tuyển tập VHS -
SGNX - trang 64). Địa giới như đã trình bày, từ rạch
Thị Nghè đến sông Sài Gòn, một chốn ăn chơi khét
tiếng.
Những
dòng sau đây cũng trích từ "Sài Gòn năm xưa" của
cụ Vương:
"Đầu
thế kỷ XX, ra khỏi Sài Gòn hai mươi cây số ngàn (20km)
đã là xa xôi lắm. Tha hồ săn bắn; heo rừng, nai, cà
tong... Xa vô chút nữa thì trâu rừng, con min, cọp, voi
không thiếu gì. Hoàng tử Henri D'Orléans, dòng dõi vua
Henri IV, Thái tử xứ Đan Mạch Waldemar và công tước Duc
de Montpensier đua nhau thường năm dứt mùa mưa, lối tháng
mười ta là có mặt tại Sài Gòn, lấy sự săn bắn thú
dữ làm món tiêu khiển phong lưu. Công tước Duc de
Montpensier xài tiền như nước, mua nhà hàng Continental tặng
cô nhân tình là Bá tước Comtesse de B...".
"...Hãng
tàu chạy sông "Messageries Fluviales" sáng lập năm
1883-1884. Sau đổi là "Compagnie Saigonnaise de navigation",
đầu tiên do Jules Rueff làm chủ sáng tạo. Rueff quen thân
với vua Hoàng Lân (Norodom). Rueff bán đồng hồ reo, đồng
hồ chuông, đồng hồ bỏ túi cho Norodom mà dư sức làm
giàu. Rueff mướn bọn thuyền chủ (trong Nam gọi là Cò
Tàu), tuy người quốc tịch Lang Sa nhưng trả lương chỉ
có bốn chục đồng bạc mỗi tháng, tính mỗi tuần mười
đồng. Thế mà bọn này làm giàu ngang xương, đủ tiền
nuôi em út, còn nuôi thêm ngựa đua, vì tàu chạy đường
Sài Gòn qua Bangkok, chuyến đi thì chở lậu súng lục,
chuyến về chở lậu thuốc phiện, không giàu sao được..."
(VHS - sđd - trang 170, 171).
Sau
chuyến hải hành kéo dài cả tháng, từ hải cảng
Marseille, qua Địa Trung Hải, xuyên kênh đào Suez, vượt
Ấn Độ Dương sóng to gió lớn, lách qua eo biển Malacca
vào vịnh Ghềnh Rái, không khó để suy ra tâm trạng mệt
nhọc, buồn chán của khách lữ hành, cả tháng ròng chỉ
thấy trời và nước. Cung cuối chặng đường, khi trạng
thái rã rời đã lên đến đỉnh điểm, chuyến hải
trình theo sông Lòng Tàu, xuyên qua rừng đước Cần Giờ,
một thứ rừng ngập mặn nhiệt đới mà nhiều người
châu Âu chưa gặp bao giờ, cảm giác xa lạ tưởng như
càng đi càng xa thế giới văn minh phương Tây quen thuộc.
Trong tâm trạng cùng cực của cô đơn ấy, bỗng một
chiều bừng sáng một thành phố phương Tây khi tàu cập
cảng Sài Gòn.
Ngủ
khách sạn Continental, khách sạn Majestic, ăn thịt bò
beefsteak, uống rượu chát vùng Bordeaux, thưởng thức xì
gà La Habana, săn bò rừng, lấy da cọp, hút thuốc phiện
và chơi gái thì, với thủy thủ tàu viễn dương và đám
thực dân đến từ Viễn Tây, Sài Gòn được ngợi ca là
hòn ngọc Viễn Đông đâu có gì lạ.
Nó
hoàn toàn không là "hòn ngọc" với thợ thuyền
xưởng đóng tàu Ba Son, cu li bốc vác cảng Sài Gòn, phu
xe kéo và đông đảo người dân bản xứ mang trên mình
bản án kiếp nô lệ, kẻ mất nước.
Để
phục vụ cho hòn ngọc ấy, cả một xã hội Sài Gòn
thuộc địa mà nhiều địa danh còn được giữ đến tận
bây giờ: Xóm Củi, Xóm Than, Xóm Dầu, Xóm Bàu Sen (gần
đồn Cây Mai), Xóm Giá (làm giá đậu xanh gần cầu Cây
Gõ), xóm Lò Bún (gần giếng Hộ Tùng), Xóm Ụ Ghe, Xóm
Rẫy Cái, Xóm Cây Cui... (VHS - SGNX - trang 84, 85).
Để
hòn ngọc Viễn Đông hoạt động bình thường, đám tay
sai bản xứ: Tôn Thọ Tường, Cai tổng Du, Lãnh binh Huỳnh
Công Tấn, tri phủ Trần Bá Lộc, tri huyện Đỗ Hữu
Phương, thông ngôn Joanès Liễu, Paul Lương và Loan... bán
nước cầu vinh.
Cũng
sách đã dẫn, cụ Vương đã chép về Tôn Thọ Tường:
"...
xuất thân "đội" rồi thăng tri huyện, tri phủ,
rồi lại về hưu "hàm Tổng đốc"... Ông người
khô ráo, dong dảy, môi mỏng, cặp mắt có sát khí. Ông
bắt được địch thủ, nhất quyết không cầm tù và chỉ
chặt đầu y quân lịnh: chém người như chém chuối, chém
không chừa con đỏ. Các ông già bà cả, nay nghe nhắc tên
ông, đều thảy lắc đầu... Để đối phó với các địch
binh không chịu ra quy thuận và thường ẩn mình nơi thâm
sơn cùng cốc, có một cách tuyệt đối: Sai bắt cha mẹ
vợ con của người ấy, đóng gông cầm tù. Một mặt bố
cáo trong ngoài kỳ hạn bao nhiêu ngày, phải ra nạp mạng.
Bằng không thì:
-
Cha, mẹ, vợ bêu đầu làm lịnh.
-
Trẻ con thì bỏ vào lòng cối giã gạo, sai lính dùng chày
lớn quết như quết nem". (Sách đã dẫn - trang 144)"
Trong
bài viết của một kiến trúc sư tên tuổi khi nói về
một dự án đầu tư tại TP. Hồ Chí Minh có đoạn nói
rằng: "Chủ tịch HĐQT Công ty Métropolitan xin chuyển
địa điểm công trình từ 63 Nguyễn Du sang đường Đồng
Khởi và giải thích: "Đồng khởi với chữ Catinat
trong ngoặc". Và bình: "Catinat - Sài Gòn là một
thương hiệu quá có giá trị" mà không biết rằng
Catinat là tên một Thống chế Pháp, Nicolas de Catinat, sinh
năm 1637, mất năm 1712, phục vụ dưới thời vua Louis XIV.
Giữa thế kỷ XIX, Pháp lấy tên Catinat đặt cho một
chiếc tàu chiến tham gia trận đánh chiếm Sài Gòn năm
1859. (Theo Hà My - Đường Catinat và nếp sống Sài Gòn
xưa)... Con đường phải mang tên kẻ xâm lược là một
vết nhục lịch sử đối với dân tộc, với đất nước.
Theo
Hà My, bài đã dẫn:
"...
Vào thời kỳ này, đường Catinat là bộ mặt sinh hoạt
của cả Sài Gòn, thành phố thuộc địa ở vùng Viễn
Đông với sự hiện diện của khoảng 3.000 người Pháp,
3/4 trong số này là sĩ quan và viên chức. Lính Pháp ở
trong các bungalow (nhà gỗ có hiên rộng) nằm khuất trong
các vườn cây xanh. Để tiết kiệm chi phí và tìm sự
đông vui hai, ba anh chung nhau tiền mướn một chỗ ở, có
sự giúp việc của một anh bồi (boy) bản xứ, đi chợ,
giặt giũ, nấu ăn...".
Vậy
thì hòn ngọc Viễn Đông với những dấu ấn thuộc địa
chẳng có gì đáng tự hào sao lại là mơ ước của một
Sài Gòn - TP. Hồ Chí Minh ngày hôm nay năng động, từng
tạo nên những giá trị tiền đề cho công cuộc đổi
mới đất nước?
No comments:
Post a Comment