Khi
một số người đang lớn tiếng đòi "tự do báo chí"
và cổ vũ cho "tự do báo chí phương Tây", họ đã
không biết hoặc cố tình không biết đó là thứ "tự
do" bị thao túng bởi các thế lực chính trị - kinh
tế, đó cũng là đề tài gây tranh cãi ở phương Tây
chưa có hồi kết.
Ðến
hôm nay, tự do báo chí vẫn là đề tài gây tranh cãi
trong báo giới và sinh hoạt xã hội phương Tây, vì rất
nhiều sự kiện xảy ra đã buộc dư luận phải quan tâm.
Có hai sự kiện liên quan tới tự do báo chí ở phương
Tây đang được bàn luận. Sự kiện thứ nhất là việc
cuốn sách Những nhà báo bị mua chuộc - phương tiện
truyền thông đại chúng đã bị các chính trị gia, các
cơ quan tình báo và các nhà tài phiệt điều khiển như
thế nào xuất bản năm 2014, tác giả là Tiến sĩ Udo
Ulfkotte làm công việc nghiên cứu tại thành phố Freiburg
(CHLB Ðức), London (Anh); sau đó là 17 năm liền ông viết
cho tờ Frankfurt khái quát, chủ yếu với nhiệm vụ phóng
viên chiến tranh; ông cũng từng giảng dạy môn quản lý
an ninh tại Ðại học tổng hợp Luneburg (Ðức), đồng
thời là chuyên gia ngành tình báo, ủy viên Quỹ Marshall
Memoral của Hoa Kỳ, làm việc trong ban tham mưu kế hoạch
của Viện Konrad-Adenau, diễn giả Học viện Liên bang về
đường lối an ninh. Với nhiều chi tiết cụ thể qua việc
kể ra sự kiện, nêu tên người, tên tổ chức, con số
thống kê,... tác giả dựng lại mặt trái của báo chí
phương Tây.
Theo
tác giả, tự do báo chí của phương Tây và tính đa
nguyên ý kiến trong báo chí chỉ là "tự do báo chí
giả tạo" và "giả tạo đa nguyên ý kiến"
(ông viết bằng tiếng Ðức là: "simulierte
Pressefreiheit" và "simulierte Meinungsvielfalt").
Ðây là điều người ta đã nghĩ tới, song không dám nói
ra, tuy nhiên đó lại là sự thật, vì nhiều nhà báo bị
mua chuộc, cơ quan tình báo "bôi trơn" để có bản
tường trình theo ý muốn; thậm chí nhân viên cơ quan tình
báo đến tận ban biên tập của báo, đài để tự tay
viết những đoạn văn, sau đó cho phát tán qua tên tuổi
của các nhà báo nổi tiếng. Ðọc cuốn sách, bạn đọc
sẽ biết rõ cách gây ảnh hưởng tới hệ thống truyền
thông vì mục đích tuyên truyền của một số tổ chức,
thí dụ như "Cầu nối - Ðại Tây Dương"
(Atlantic Bridge), thành lập năm 1952. Tổ chức này là cầu
nối giữa các thế lực kinh tế, tài chính, giáo dục,
đường lối quân sự giữa Hoa Kỳ với CHLB Ðức; Quỹ
Marshall Ðức (German Marshall Fund), Ủy ban ba bên (trilateral
Commission), Hội đồng Hoa Kỳ về Ðức (American Council on
Germany),... Ðại sứ quán Mỹ từng chi tiền tài trợ cho
các dự án khác nhau, nhưng thực tế chỉ phục vụ mục
đích tác động tới ý kiến của công chúng Ðức.
Vì
đã viết báo trong một thời gian dài và gây ảnh hưởng
tốt cho Mỹ, tác giả đã được nhận "Giấy chứng
nhận công dân danh dự Mỹ", tuy thế ông vẫn quyết
định tiết lộ những gì ông làm trong quá khứ, bởi ông
cảm thấy xấu hổ. Nhiều người đánh giá cao vì ông đã
tự thú mình cũng là một trong các nhà báo bị mua chuộc.
Có người lên án, gọi ông là kẻ phản bội. Nhưng có
người gọi ông là "Edward Snowden của báo chí phương
Tây".
Một
số nhà báo, đặc biệt những người bị nêu tên và phê
bình lên tiếng cho rằng có chi tiết không chính xác. Mạng
trực tuyến Krautreporter cũng có bài phân tích, chỉ ra các
điểm yếu, nhưng cũng phải công nhận, nhìn chung không
phải tất cả những lời tố cáo trong sách là vô căn
cứ. Việc tác giả phê phán "Giải báo chí tự do"
do một hãng sản xuất thuốc lá trao tặng hằng năm là
rất chính xác, vì đây là một giải kỳ dị, thực ra là
hành động vụ lợi của nhà vận động hành lang. Việc
chỉ trong hai tháng, cuốn sách được xuất bản ba lần
cũng là điều gây ấn tượng với người quan tâm (xuất
bản lần đầu tháng 9/2014, lần 2 tháng 10/2014, lần 3
cũng trong tháng 10/2014).
Tuy
có phản biện, phê phán, nhưng sau ba lần xuất bản chưa
có cá nhân hay tổ chức nào yêu cầu tác giả hay nhà
xuất bản xóa tên, hay bỏ đi chi tiết nào trong sách. Rất
khác với một số trường hợp trong quá khứ, sau khi một
cuốn sách được xuất bản, các vụ kiện ra tòa được
tiến hành rầm rộ và nhiều cá nhân đưa ra ý kiến
ngược chiều, mong tòa án gây áp lực với tác giả.
Tuy
nhiên, có một đoạn văn trong cuốn sách làm nhiều bạn
đọc phải suy nghĩ, đó là ông kể nhà báo nổi tiếng
thế giới Peter Scholl-Latur, người bạn mà ông đã nhiều
lần gặp ở nhiều vùng chiến sự, trong lần gặp lại
vào năm 2014, khi được hỏi kinh nghiệm sống của mình
về việc phương tiện truyền thông bị giật dây và tình
trạng kiểm duyệt, Peter Scholl-Latur đã cho rằng: "Paul
Sethe đã nói trước đây nhiều năm, tự do báo chí là tự
do phổ biến các ý kiến riêng của 200 người giàu có.
Nhưng bây giờ làm gì còn 200 người, chỉ còn bốn hoặc
năm người thôi"! Có thể coi ý kiến này là một
đánh giá chuẩn xác về thực trạng tích tụ tư bản của
báo chí phương Tây, vì khi Paul Sethe còn sống, trong tay có
200 "ông hoàng truyền thông", bây giờ số "ông
hoàng" chỉ còn đếm được trên năm đầu ngón tay.
Sự
kiện thứ hai không chỉ được bạn đọc mà nhiều báo,
tạp chí danh tiếng và cả đài truyền hình chính thống
của CHLB Ðức chú ý là việc phát hành cuốn sách Sức
mạnh của ý kiến - ảnh hưởng của giới tinh hoa đến
truyền thông định hướng và các nhà báo dẫn đầu -
Một phân tích phê phán mạng lưới. Cuốn sách này vốn
là luận án khoa học để nhận học vị tiến sĩ, đã
bảo vệ thành công của tác giả là Tiến sĩ Uwe Krueger
sinh năm 1978; trước khi trở thành nhà khoa học làm việc
tại Học viện khoa học thông tin và truyền thông ứng
dụng thuộc Ðại học tổng hợp Leipzig, ông từng làm
việc tại Báo Nhân Dân Leipzig. Ở phương Tây, "nhà
báo dẫn đầu" (Alpha-Journalist) được coi là người
giữ vai trò quan trọng trong định hướng báo chí. Câu
hỏi trọng tâm tác giả nêu ra trong cuốn sách là: "ý
kiến" đã hình thành như thế nào?
Ðể
trả lời, ông nghiên cứu cách viết bài, cách phát tán
của truyền thông định hướng về hoạt động của quân
đội Ðức ở nước ngoài và Hội nghị an ninh thường
niên ở Mu-ních. Ðây là hội nghị quốc tế của những
chính trị gia, an ninh, nhà quân sự và công nghiệp chế
tạo vũ khí (MSC - Munich Security Conference). Tác giả khảo
sát mạng lưới của 219 nhà báo hàng đầu, 21 báo và đài
thuộc loại tầm cỡ với các nhân vật quan trọng thuộc
giới tinh hoa về chính trị và kinh tế. Kết quả thu được
cho thấy, báo chí chính thống đưa tin, bình luận quá tốt
về đường lối an ninh của Chính phủ Ðức và khối Bắc
Ðại Tây Dương (NATO). Ðó là điều trái ngược, vì trên
thực tế phần lớn dân chúng có thái độ phản đối
đường lối này. Thí dụ, một thời gian dài, trên chính
trường và trên báo chí người ta nói và viết về cuộc
chiến ở Afganistan sau sự kiện 11/9/2001 theo kiểu "luẩn
quẩn như chèo đò đêm", sau người ta sáng tạo ra
một khái niệm để thể hiện tính tích cực là "sứ
mệnh hòa bình và ổn định".
Và
truyền thông chính thống đồng loạt sử dụng khái niệm
như chính mình sáng tạo. Tác giả còn đưa các thí dụ
khác về sự im lặng, đè nén thông tin hoặc bẻ cong theo
ý muốn đối với các kết quả điều tra của nhà báo
mà lực lượng chính trị không mong muốn. Cụ thể, một
số nhà báo đã ghi nhận được ảnh hưởng nguy hiểm
của vũ khí có chứa chất uranium do lực lượng NATO sử
dụng trong cuộc chiến Balkan. Ông Bộ trưởng quốc phòng
khi đó đã thành lập "hội đồng các chuyên gia"
để kiểm định cáo buộc. Người đứng đầu hội đồng
là ông Theo Sommer, lúc đó là Tổng biên tập tờ Thời
gian (Zeit). Ông được Bộ trưởng Quốc phòng rất tin
cậy, có thể vì trong quá khứ ông đã làm việc tại bộ
tham mưu kế hoạch của quân đội, sau đó là ủy viên
Hội đồng cơ cấu quốc phòng của chính phủ.
Nửa
năm sau khi thành lập, hội đồng kết luận như một lời
"hủy bỏ báo động" sự việc: vũ khí có chứa
chất uranium được xem là không nguy hại. Ngay sau đó, tờ
Thời gian đăng tại trang nhất bài viết với cái tên ấn
tượng Ðiều nhục nhã cho những kẻ đã báo động (Die
Blamage der Alarmisten). Kết thúc chiến dịch, nhà báo Theo
Sommer nhận từ Bộ trưởng Quốc phòng huân chương Chữ
thập danh dự vàng của quân đội. Trong cuốn sách, tác
giả cũng nhắc đến "chiến dịch thổi phồng của
phương tiện truyền thông" đã bùng nổ chung quanh sự
kiện "cách mạng Cam" năm 2004 ở Ukraina. Ông cho
rằng trong "cơn say ngây ngất vì dân chủ", các
phương tiện truyền thông cố ý quên đi sự hỗ trợ to
lớn đối với các "nhà cách mạng Ukraina" qua các
tổ chức rõ ràng nằm trong "tầm tay" của
Washington.
Và
hầu như các phương tiện truyền thông không đi chệch
khỏi sơ đồ: một bên là ứng cử viên "tốt"
thân phương Tây, một bên là ứng cử viên "xấu "
thân Nga. Rồi sau đó mấy tháng, tạp chí Tấm gương (Der
Spiegel) đăng trên trang nhất chuyện được kể theo phong
cách không phê phán: sau khi điều tra công phu với sự
giúp đỡ của phía Hoa Kỳ, người ta thấy các tổ chức
của Hoa Kỳ là rất vị tha vì đã mang tới cho các dân
tộc bị đàn áp ở Ðông Âu "ngọn đuốc tự do",
còn quyền lợi địa chính trị của Hoa Kỳ ở khu vực
này thì hoàn toàn bị "tảng lờ"... Sau khi cuốn
sách xuất bản, đã có một số bài viết và ý kiến
phản biện, nhưng phần lớn nhà khoa học và nhiều người
trong giới báo chí đã đánh giá rất cao.
Như
vậy, qua hai cuốn sách nói trên, không thể nói "tự
do báo chí phương Tây" là mẫu hình có thể noi theo
và học tập, vì "tự do" ấy trước hết không
để phục vụ lợi ích chung của xã hội, mà để đáp
ứng yêu cầu của các thế lực chính trị - kinh tế đứng
sau thao túng. Chính vì thế, thật là đáng ngờ trước
việc một số tổ chức, cá nhân người Việt Nam trong và
ngoài nước đang cổ vũ cho thứ "tự do" kể
trên. Qua ý kiến và hoạt động của họ trên in-tơ-nét,
có thể nói, họ đang cố tình hiểu, xuyên tạc và lợi
dụng "tự do" theo ý muốn của mình để công bố
các tin, bài có nội dung bịa đặt, vu khống, bôi nhọ,...
chính quyền, cá nhân lãnh đạo mà không chịu trách nhiệm
trước pháp luật. Họ coi như thế là "tự do"
chăng? Ðừng nghĩ ở phương Tây người ta sẽ bỏ qua
những hành động như vậy, bởi dù tự do thế nào thì
luật pháp ở phương Tây vẫn coi đó là hành vi vi phạm
pháp luật và pháp luật sẽ nghiêm trị, đã có quá nhiều
thí dụ về điều này, xin không phải dẫn lại.
Theo
NHÂN DÂN ONLINE
No comments:
Post a Comment