Sự
kiện lịch sử xảy ra cách nay 40 năm, vào tháng Tư năm
1975 đã kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài gần
hai mươi năm, đánh dấu sự thất bại dứt khoát và toàn
diện của hành động can thiệp quân sự quy mô của Mỹ
và đám chư hầu của các chế độ Sài Gòn. Nó mở ra
một kỷ nguyên chưa bao giờ có trong suốt chiều dài mấy
ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt
Nam. Đó là một Việt Nam độc lập, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, và hoàn toàn do người Việt Nam làm chủ
vận mệnh đất nước mình.
Tuy
nhiên sự kiện lịch sử này cũng mở ra một giai đoạn
của rất nhiều người Việt Nam bỏ nước ra đi mà đa
số những người ra đi này là từ miền Nam Việt Nam,
những người đã sống qua các chế độ chính trị của
miền Nam. Họ được nói đến như là “những người tỵ
nạn cộng sản” vì lý do rõ ràng là việc bỏ nước ra
đi này xảy ra chỉ sau khi chính quyền cộng sản miền
Bắc trở thành nhà cầm quyền duy nhất của toàn thể
Việt Nam, cả Nam lẫn Bắc. Sự giải thích chính thống,
thường ở “cửa miệng” của nhiều người cho sự ra
đi này là do chính sách cai trị kềm kẹp hà khắc, tàn
bạo, bần cùng, và phân biệt đối xử của chế độ
mới. Vậy ta hãy nhìn kỹ xem có phải đó là nguyên do
chính đáng và duy nhất cho sự ra đi này không?
Việc
bỏ nước ra đi của nhiều người Việt Nam từ năm 1975
chia ra làm nhiều đợt. Đợt ra đi đầu tiên xảy ra ngay
trong những ngày ngắn ngủi cận kề trước sau thời điểm
sụp đổ của chính quyền Sài Gòn. Đây là đợt ra đi
đông nhất, gồm hầu hết là các sĩ quan, viên chức
quân, dân sự, trung, cao cấp của chính quyền Sài Gòn và
những người làm việc cho các cở sở Mỹ cùng gia đình,
thân nhân của họ. Họ ra đi vì nỗi lo sợ, hoang mang
cùng cực, do sự suy nghĩ rằng với một quá khứ phục
vụ đắc lực cho Mỹ và các chế độ Sài Gòn, gây ra
nhiều tổn hại cho phía cách mạng thì thế nào họ cũng
bị nguy hại đến tính mạng nếu còn ở lại. Họ hồi
tưởng lại những hành động tàn ác của họ gây cho
phía bên kia, cụ thể qua các phòng cảnh sát đặc biệt
đầy các dụng cụ tra tấn cho việc hỏi cung; các chuồng
cọp giam giữ tù binh Việt Cộng ở Côn Đảo và các trò
hành hạ vô nhân đạo khác; các kiểu giết người dã
man như đạp tù binh rớt xuống khỏi máy bay trực thăng,
hay bảo tù binh rằng họ được tha và hãy chạy đi nhưng
khi tù binh chạy thoát thân thì bị nhắm làm cái đích để
bắn chết; qua các tên lính hung ác cắt tai xỏ xâu của
xác các Việt Cộng bị chúng bắn chết để làm chiến
lợi phẩm; qua các cuộc hành quân của quân đội chế độ
Sài Gòn vào các vùng oanh kích tự do hay vùng “xôi đậu”
tha hồ cướp bóc, hảm hiếp, và bắn giết... Từ đó,
họ tiên đoán thế nào cũng có “một biển máu” xảy
ra vì sự trả thù nếu cộng sản chiến thắng. Cho nên
họ đạp lên nhau mà chạy. Họ tranh nhau mà leo lên các
chiếc máy bay cuối cùng, lên những con tàu nhổ neo cuối
cùng. Họ lấm lét gườm nhau, dòm chừng nhau, rồi lẳng
lặng mạnh ai nấy đi, mạnh ai nấy chạy. Các tướng tá
Sài Gòn mới hôm qua tuyên bố một cách hùng hồn “tử
thủ”, ra lệnh cho các thuộc cấp không được bỏ nhiệm
sở thì ngày hôm sau chuồn mất! Những mỹ từ cao cả
như “tình đồng đội”, “danh dự”, “trách nhiệm”…
nay trở thành vô nghĩa, rỗng tuếch. Thật ra họ là nạn
nhân của chính cái chính sách tuyên truyền ngu xuẩn mà
họ là tác giả. Chính sách tuyên truyền này qua bao nhiêu
năm đã mô tả những người cộng sản miền Bắc là
những kẻ vô thần, vô gia đình, vô tổ quốc, chỉ biết
có đảng, em tố anh, con tố cha, vợ tố chồng, ngờ vực,
nghi kỵ nhau, lạnh lùng, sắt đá, không tình cảm, sẵn
sàng sát hại, chém giết không gớm tay vì lợi ích của
đảng. Họ bỏ chạy vì tâm lý lo sợ, khủng hoảng cùng
cực chứ không phài là “tỵ nạn cộng sản” vì họ
có sống với chế độ cộng sản ngày nào đâu để biết
cộng sản như thế nào mà chán ghét, căm thù, không sống
nổi mà bỏ đi!Đợt hai là những người vượt biển vào
những năm 1976, 77, 78. Nếu bảo “tỵ nạn cộng sản”
thì những người này mới thật là “tỵ nạn” vì họ
đã sống dưới chế độ mới được hai, ba năm rồi. Họ
bảo họ đã nếm “mùi” thế nào là cộng sản nên họ
sợ, họ chán mà bỏ đi. Nhưng cái ”mùi” mà họ bảo
là họ đã nếm có thật chính xác không, có đúng như
lời họ nói không? Muốn biết rõ thêm thì hãy nhìn xem
tình hình đời sống của người dân miền Nam của những
năm tiếp theo sau ngày giải phóng như thế nào. Trước
tiên là đời sống người dân, nhất là người dân ở
thành thị, gặp nhiều khó khăn, khổ hẳn ra so với cuộc
sống của họ trước 1975. Cuộc sống sung túc bề nổi
mà họ hưởng được trước 1975 là cuộc sống sung túc
mà không có nền tảng vì kinh tế của miền Nam là con số
không, hoàn toàn sống nhờ vào tiền viện trợ của Mỹ
cho cuộc chiến, giống như một cánh hoa chùm gửi đẹp,
tươi tốt vì nó nhờ sống bám vào cây cổ thụ. Bây giờ
nó bị dứt ra khỏi cây cổ thụ ấy thì làm sao có được
sự sung túc như xưa. Miền Bắc, sau bao nhiêu năm dồn hết
sức lực và tài nguyên cho cuộc chiến ở miền Nam thì
hơi đã tàn, lực đã kiệt, nay lại phải gánh vác thêm
một miền Nam phi sản xuất, không còn có những món tiền
hào sảng của Mỹ thì có biết bao nhiêu vấn đề cần
phải giải quyết. Để giải quyết nhiều vấn đề quan
trọng cùng một lúc, nhất là vấn đề an ninh cũng như
cuộc sống của người dân, nhà nước buộc phải có
những chính sách khắc nghiệt. Những chính sách này phải
tuân thủ theo các nguyên tắc cốt lõi của chủ nghĩa xã
hội. Đó là bất cứ hoạt động sinh kế nào không trực
tiếp tạo ra của cải hay sản phẩm đều bị coi là bất
chính. Các mối lợi có từ những sinh hoạt môi giới,
trung gian, mua đi bán lại, buôn lậu, chợ đen, đầu cơ
tích trữ… đều là phi pháp. Cho nên một loạt các cuộc
cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh được thực
hiện, dẹp bỏ toàn bộ các buôn bán nhỏ, vừa, và lớn.
Số người, đối tượng cho các cuộc cải tạo này, sau
khi bị cải tạo phải kết hợp nhau để thành lập hoặc
gia nhập các hợp tác xã làm ra sản phẩm, nếu không thì
phải đi vùng kinh tế mới để bắt đầu một cuộc sống
lao động vất vả. Hàng ngàn viên chức, sĩ quan của chế
độ cũ bị tập trung đi học tập cải tạo, để lại
phía sau những thân nhân không có công ăn việc làm, cũng
buộc phải đi vùng kinh tế mới để sản xuất. Những
người làm nghề nông, trồng trọt lúa gạo thì phải vào
hợp tác xã, khiến năng suất thu hoạch bị sút giảm vì
nông dân miền Nam không quen với lối làm ăn tập thể
nên gây ra tình trạng cha chung không ai khóc, làm cho lấy
có, không cật lực. Rõ ràng là đời sống của người
dân miền Nam xuống thấp thấy rõ. Nhưng đó không phải
là chính sách phân biệt đối xử của chế độ mới,
của kẻ chiến thắng đối xử với kẻ chiến bại.
Không phải kẻ chiến thắng thì ăn trên ngồi trốc còn
kẻ chiến bại thì bị bóc lột, hành hạ. Người dân
miền Bắc còn khổ hơn rất nhiều. Các viên chức, cán
bộ của nhà nước cũng phải sống cuộc sống thắt lưng
buộc bụng, thiếu thốn trăm bề y như các người dân
bình thường khác. Cũng phải ăn cơm độn với bo bo hay
khoai sắn, cũng phải ăn theo chế độ khẩu phần gạo,
thịt, cá, vải vóc…và các nhu yếu phẩm khác, tùy theo
công việc lao động của mỗi người. Người dân của ba
miền đất nước đều khổ như nhau, kẻ chiến thắng
cũng như kẻ chiến bại. Vậy thì những người vượt
biển, bỏ nước ra đi không phải vì họ không chịu được
cái khổ, cái đọa đày chỉ có họ là nạn nhân do bị
phân biệt đối xử như theo lời họ ta thán mà vì họ
không chịu được cái khổ chung của cả nước.
Còn
về mặt chính trị thì sao? Chế độ mới này rõ ràng là
chế độ chính trị của những người lao động, bần
cùng, thấp cổ bé miệng - những người bị chèn ép,
hiếp đáp, khinh khi vì nghèo, vì ít học, vì không có
phương tiện sản xuất nên phải đi làm thuê, làm mướn.
Những chiếc nghế ngồi danh dự của các cuộc mít tin
trọng thể, của các buổi lễ long trọng trên khán đài
là dành cho các bà mẹ quê chất phác, lam lũ; những chiến
sĩ, cán bộ bình dị, chân chất, chứ không là chỗ ngồi
của các tai to mặt lớn, bệ vệ, khinh khỉnh mà ta luôn
luôn thấy ở các khán đài của các chế độ Sài Gòn
trước đây. Tự do và quyền lợi cá nhân không được
đặt nặng hay xem trọng, nhường chỗ cho quyền lợi của
cộng đồng, chòm xóm, đất nước, tổ quốc. Cái chung
thường được nói đến nhiều hơn là cái riêng. Những
người làm ăn giàu có, những trí thức, học cao như bác
sĩ, kỹ sư…, thường có một cuộc sống kênh kiệu,
hách dịch, và khinh thường những người lao động chân
tay, ít học ở các chế độ cũ nay buộc phải thay đổi
cung cách sống, không dám tỏ ra khoe khoang, khinh dễ như
xưa nữa. Họ cảm thấy không được trọng vọng cho
tương xứng với trình độ học vấn hay đẳng cấp xã
hội của họ cho nên không ít trong loại người này không
thích chế độ mới, và họ tìm cách bỏ nước ra đi.
Đợt
cao điểm vượt biển ra đi nhiều nhất lần thứ hai là
năm 1979, sau cuộc chiến tranh biên giới với Trung quốc.
Lo sợ rằng số lượng người Việt gốc Hoa có thể trở
thành là kẻ tiếp tay cho giặc nếu Trung quốc gây chiến
với ta một lần nữa, nhà nước đã âm thầm cho ra một
chính sách đối xử riêng biệt với nhóm người Việt
gốc Hoa này. Những viên chức, cán bộ Việt gốc Hoa thì
bị buộc về hưu hay chuyển đổi qua những công tác
không quan trọng. Còn số người Việt gốc Hoa bình thường
khác thì được khuyến khích bỏ nước ra đi. Nếu chế
độ miền Nam Việt Nam trước 1975 có một nền kinh tế
thì nền kinh tế này hoàn toàn nằm trong tay đám người
Việt gốc Hoa. Ở tất cả các thành phố của miền Nam,
những con đường chính yếu, thương mại sầm uất là
chỗ chiếm lĩnh của các cửa hàng, tiệm ăn đủ mọi
loại của ngườI Việt gốc Hoa. Họ làm giàu qua việc
buôn bán, môi giới, đầu cơ tích trữ, dìm giá ép giá,
buôn lậu, và hối lộ. Họ sống trên đất nước Việt
Nam mà họ chỉ nói tiếng Hoa, lập hội ngườI Hoa, trường
học tiếng Hoa, sinh hoạt thuần túy văn hóa, tập quán
Hoa…Chợ Lớn là một thành phố hoàn toàn do người Hoa
thống lĩnh. Những người Việt Nam có chút tinh thần dân
tộc cảm thấy rất bất mãn với cung cách làm ăn và
sinh sống của đám người Hoa này nhưng không làm gì được
vì họ được sự bao che của những viên chức tham nhũng
của các chế độ Sài Gòn. Cho đến khi họ bị cải tạo
công thương nghiệp tư bản tư doanh thì tiệm buôn, của
cải, nhà ở của họ bị tịch thu. Sự độc quyền kinh
tế của họ tưởng chừng như không bao giờ bị sụp đổ
thì nay bỗng chốc tan tành ra mây khói. Người dân miền
Nam cảm thấy thật hả dạ với việc làm này của nhà
nước. Khi họ được chính quyền cho biết họ được
phép vượt biển, ra đi không chính thức thì họ vui mừng
không gì bằng. Vì sau khi bị cải tạo, họ không còn
được phép làm những công việc sinh kế như xưa nữa,
cả cơ ngơi họ tạo dựng được đều bị tịch thu, cho
nên họ là kẻ căm ghét chế độ nhất, chỉ muốn đi
nơi nào khác để làm lại cuộc sống. Nhà nước, thông
qua công an, tổ chức các chuyến tàu vượt biển cho người
Việt gốc Hoa, trung bình chi phí cho mỗi người là 10 cây
vàng. Như vậy, qua hai cách, cải tạo và cho đi vượt
biển, nhà nước đã tóm gọn toàn bộ- của nổi lẫn
của chìm- của đám người Hoa này. Cho nên cả hai bên
đều hài lòng và có lợi. Người Việt gốc Hoa rất vui
mừng được ra đi và nhà nước không còn nỗi âu lo về
an ninh. Hàng loạt các con tàu chở đầy người Hoa vượt
biển xuất phát từ Cà Mau, Rạch Giá, Nha Trang, Qui Nhơn…
liên tục đến các đảo của Thái Lan, Indonesia, Malaysia,
Hong Kong. Cho đến khi các nước bị đổ bộ bởi quá
đông người vượt biển công khai lên án Việt Nam “xuất
cảng” người vượt biển thì nhà nước mới cho ngưng
hẳn chương trình này.
Sau
đợt vượt biển được cho phép không chính thức này
thì người vượt biển ra đi vẫn còn tiếp tục lai rai ở
những năm 1980 cho đến sau 1985, tuy không nhiều như trước.
Một phần vì sự hoành hành của hải tặc Thái Lan và sự
hững hờ, không còn sẵn lòng cứu giúp như trước kia
của các con tàu thương thuyền khi gặp các chiếc ghe của
người vượt biển. Thêm vào đó, các nước cho người
vượt biển tạm trú tỏ ra rất lạnh nhạt, miễn cưỡng
trong việc tiếp nhận, bắt đầu có những biện pháp
ngăn chận, xua đuổi người tỵ nạn. Đồng thời nước
Mỹ vốn là nước rất rộng lượng trong việc thu nhận
người tỵ nạn thì nay bắt đầu một chính sách rất
khắc khe trong tiến trình cứu xét. Người ta hay nói lý
do chính cho nhiều người bỏ nước ra đi là vì sự cai
trị “quá tàn ác” của chế độ cộng sản Việt Nam.
Đó là lối nói qui chụp. Chế độ chính trị khác nhau
một trời một vực giữa hai chính quyền trước và sau
1975 đưa đến hai cách sống và nhận thức khác nhau đã
làm cho nhiều người dân đã quen với lối sống của
miền Nam không có khả năng thích nghi với lối sống và
suy nghĩ mới dưới chế độ mới. Thêm nữa, những người
bỏ nước ra đi trước kia, nay đã có đời sống sung
sướng và ổn định ở Mỹ và các nước phương Tây
khác viết thư về các thân nhân còn ở tại Việt Nam, mô
tả một cuộc sống đầy đủ mà họ đang thụ hưởng
đã là một trong những nguyên nhân chính yếu thôi thúc
quyết tâm vượt biển của những người còn ở lại
Việt Nam. Mặc dù xảy ra một cách lén lút và bất hợp
pháp, vượt biển đã trở thành là một phong trào của
những năm sau 1975 và là một thương vụ béo bở của
những kẻ tổ chức vượt biển. Những người tìm đường
vượt biển đã bị những kẻ tổ chức gian xảo lừa
đảo nhiều lần, công khai và trước mặt mà người bị
lừa không làm gì được, vì không thể nào đi tố cáo
với công an hành động bị ngăn cấm của mình và của
kẻ lừa mình. Nếu việc bỏ nước ra đi chỉ thuần túy
là lý do chính trị, không thể nào chịu nỗi “sự cai
trị tàn bạo” của chế độ mới thì những người tìm
đường vượt biển cùng với những kẻ tổ chức vượt
biển lẽ ra phải có sự cảm thông, đùm bọc, giúp đỡ
lẫn nhau vì cùng lý tưởng “đi tìm tự do” thay vì lợi
dụng để dối gạt, lừa đảo, kiếm lợi cho riêng mình.
Hóa ra tại nơi xuất phát của “cuộc hành trình đi tìm
tự do” mà ông thượng nghị sĩ người Canada gốc Việt
Ngô Thanh Hải vận động ráo riết để thành dự luật
chỉ là tụ điểm của “những người đi tìm tự do”
dối gạt, lừa đảo nhau chỉ vì những cây vàng dễ kiếm
như trở bàn tay.
Có
lẽ đám người Việt gốc Hoa là phù hợp với nhãn hiệu
“tỵ nạn cộng sản” vì họ là những kẻ bị mất
mát nhiều nhất do chế độ cộng sản gây ra, tuy nhiên
họ rất mừng để được ra đi. Nhưng việc làm của chế
độ đối với họ đã làm hả dạ dân chúng Việt Nam,
vì có lợi cho an ninh và quyền lợi của đất nước.Vậy
thì họ “tỵ nạn cộng sản” là đúng nhưng bảo rằng
họ bị đối xử bất công, oan ức thì là không. Còn
những thành phần vượt biển còn lại khác thì chủ yếu
là lý do kinh tế - những kẻ bỏ cuộc, đầu hàng, không
muốn đồng cam chịu khổ với cái khổ chung của toàn
dân Việt lúc bấy giờ.
Minh
Đức, April 26, 2015
Nguồn:
KBCHN.NET
No comments:
Post a Comment