Tôi thường nghe các rận chủ bới móc hiện tại và khen ngợi không tiếc lời về một giai đoạn xã hội phát huy tột cùng các quyền về tự do dân chủ gì gì đó. Họ không hiểu hay bị những đồng tiền bên ngoài bịt mồn nên cố tình không hiểu về cái thể chế bù nhìn mà họ đang tôn thờ. Xin trích dẫn bài viết của chính những người bên kia chiến tuyến nói về một trong số Tổng thống của họ để minh chứng (những đoạn in đậm).
Ông
Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống trong giai đoạn chiến
tranh ở Nam Việt Nam, đã phải đi lưu vong chỉ vài ngày
trước khi đất nước ông rơi vào tay quân đội Cộng
sản Hà Nội vào năm 1975, đã qua đời hôm thứ Bảy, từ
lâu tin rằng ông bị đồng minh Mỹ phản bội trong những
tháng cuối cùng của cuộc chiến. Ông thọ 78 tuổi.
Ông
Thiệu, ra đi tại nhà riêng ở Foxboro, ngoại ô Boston, hôm
thứ Năm, đã để lại nhiều câu hỏi chưa được trả
lời.
Một
trong số những câu hỏi: Tại sao ông bỏ ngỏ cao nguyên
Trung phần cho quân xâm lược Hà Nội vào tháng 3 năm
1975? Quyết định đó đã dẫn đến sự sụp đổ của
Sài Gòn một tháng sau.
Ông
Thiệu giữ vai trò quan trọng trong mọi sự kiện lớn tại
Việt Nam trong suốt một thập niên, từ việc lật đổ
chính quyền Ngô Đình Diệm năm 1963, đến Hiệp định
Hòa bình Ba Lê năm 1973, là điều mà ông chống lại một
cách cay đắng, cho đến những ngày hỗn loạn cuối cùng
của Sài Gòn. Ông đã rời khỏi nước khi xe tăng Bắc
Việt cán qua công Dinh Độc Lập vào ngày 30 tháng 4, kết
thúc một cuộc chiến đã lấy đi 3 triệu sinh mạng người
Việt Nam và 58.000 người Mỹ.
Nhưng
những bí mật đã theo ông xuống mồ. Ông chưa bao giờ
viết hồi ký, mà chỉ cho phép vài cuộc phỏng vấn và
tiếp nhận một vài khách viếng thăm. Hàng xóm thấy ông
dẫn chó đi bộ xung quanh hồ Neponset, nhưng họ biết rất
ít về ông.
“Tôi
không đi ra ngoài nhiều”, ông cho biết vào năm 1992. “Tôi
không…, nói thế nào nhỉ, đi dạo”.
Các
thành viên của cộng đồng người Việt tại Quận Cam có
cảm xúc lẫn lộn về cái chết của ông. Ông bị chỉ
trích do lãnh đạo một chính phủ tham nhũng và bất tài.
“Cảm
giác là một chương khác của lịch sử được giở sang
trang”, ông Tony Lâm, nghị viên hội đồng thành phố
Westminster và là dân cử người Mỹ gốc Việt đầu tiên,
nói.
Ông
Lâm cho biết, ông có một “lập trường rất trung dung”
khi nói đến những tranh cãi xung quanh ông Thiệu, người
mà ông đã gặp ở Việt Nam ba thập niên trước, khi ông
Lâm làm việc cho Tòa Đại sứ Mỹ. Ông nhớ rằng ông
Thiệu là một người thân thiện, luôn khuyến khích những
người khác giúp đỡ dân chúng và nạn nhân trong những
trường hợp ngoài tầm kiểm soát của ông.
Ông
Lâm nói: “Ông ấy đã điều khiển một con tàu chật
hẹp trong thời gian đó. Tôi có cảm tưởng rằng ông đã
được dẫn vào một con đường thơ mộng ảo bởi chính
sách của Mỹ”.
Bà
Mai Công, chủ tịch tổ chức Cộng đồng Việt Nam ở
Quận Cam, cho biết: “Có rất nhiều tranh cãi về nhiệm
kỳ tổng thống Việt Nam của ông. Ông ấy đã qua đời.
Tôi không muốn nói bất cứ điều gì”.
Ông
Thiệu, trong một cuộc phỏng vấn hiếm hoi, thừa nhận
có những lời chỉ trích từ những người đồng hương
của ông.
“Thú
thật, tôi đã nói chuyện với họ rất thẳng thắn,
nghiêm túc”, ông nói với tờ Boston Globe vào năm 1992.
“Ông đổ lỗi cho tôi làm sụp đổ miền Nam Việt Nam,
ông chỉ trích tôi, tất cả mọi thứ. Ông được phép
làm điều đó. Tôi muốn nhìn thấy ông làm tốt hơn
tôi”.
Nguyễn
Văn Thiệu (tên có nghĩa là lên cao) sinh ngày 5 tháng 4 năm
1923, người con út trong năm người con của một thị trấn
nghèo ở Phan Rang thuộc tỉnh Ninh Thuận, thời đó là một
phần của xứ bảo hộ thuộc Pháp [Trung Kỳ]. Cha ông là
một ngư dân-nông dân khá giàu có và là người chủ đất
nhỏ.
Ninh
Thuận bị người Nhật chiếm đóng vào năm 1942, với rất
ít kháng cự, và ông Thiệu đã làm việc cày cấy một
cách yên bình bên cạnh cha ông trong 3 năm. Khi chiến tranh
thế giới thứ Hai kết thúc, giống như nhiều thanh niên
đồng lứa, ông đã tham gia vào phong trào dân tộc chủ
nghĩa chống Pháp là Việt Minh (sau này gọi là Việt Cộng)
và lên tới chức quận trưởng.
“Đến
tháng Tám năm 1946, tôi biết rằng Việt Minh là Cộng Sản.
Họ bắn người. Họ lật đổ ủy ban xã. Họ chiếm
đất”. Ông Thiệu từng nói với tạp chí Time, giải
thích lý do vì sao ông rời bỏ phong trào sau một năm và
bí mật vào Sài Gòn để hỗ trợ chính phủ miền Nam
Việt Nam.
Ông
Thiệu, với sự giúp đỡ của anh trai, ông Nguyễn Văn
Hiếu, một luật sư học ở Paris và là viên chức cao cấp
trong chính phủ, đã ghi danh vào Học viện Hàng hải và
Học viện Quân sự Quốc gia ở Đà Lạt. Ông được
phong thiếu úy vào năm 1949, và với chức vụ trung đội
trưởng bộ binh trong chiến dịch chống Việt Minh, ông
nổi tiếng là một nhà chiến lược giỏi và là một
lãnh đạo có khả năng, nếu không muốn nói là táo bạo.
Ông đã được lên chức một cách nhanh chóng.
Năm
1954, là chỉ huy trưởng tiểu đoàn với cấp bậc thiếu
tá, ông dẫn đầu một cuộc tấn công vào Việt Minh,
buộc quân du kích phải rút lui khỏi ngôi làng của ông.
Ông
Thiệu tiếp tục lên chức để trở thành chỉ huy trưởng
của sư đoàn và quân đoàn hai lần, năm 1957 và năm 1960,
được gửi sang Mỹ để được huấn luyện quân sự.
Vào tháng 11 năm 1963, ông đã chỉ huy một cuộc tấn
công vào doanh trại của quân bảo vệ phủ tổng thống
Diệm, góp phần vào việc lật đổ chế độ quân sự và
vụ ám sát ông Diệm.
Như
là một phần thưởng, ông được giữ chức Tổng thư ký
của Hội đồng Quân Nhân Cách Mạng, nắm giữ quyền lực
ở miền Nam Việt Nam.
Nam
Việt Nam đã có 10 chính phủ trong vòng 19 tháng sau đó.
Hoa Kỳ, tuyệt vọng trong việc muốn có một lãnh đạo
chống Cộng thống nhất các thành phần xã hội, đã hỗ
trợ sau lưng ông Thiệu, một Phật tử cải sang đạo
Công giáo và một người không thuộc về phe nhóm quân sự
hay chính trị nào.
Với
sự hỗ trợ của Mỹ, ông Thiệu đã được bầu làm
tổng thống vào tháng 10 năm 1967. Ông hứa hẹn một chế
độ dân chủ và cải cách xã hội và “luôn mở rộng
cánh cửa hòa bình”. Ông tái đắc cử vào năm 1971;
cả hai cuộc bầu cử đều bị xem là có gian lận về
phía có lợi cho ông.
Chính
quyền của ông Thiệu đầy dẫy tham nhũng, tham lam, bất
tài và ghen ghét chính trị nhỏ nhặt, và chính ông cũng
thường bị Phó Tổng thống sáng chói, Nguyễn Cao Kỳ,
che khuất. Nhưng Washington đã hỗ trợ sau lưng ông Thiệu
là người tốt nhất để điều hành cuộc chiến, và ông
đã chứng tỏ là một đồng minh trung thành và biết nghe
lời.
Ông
ủng hộ quyết định của Tổng thống Lyndon Johnson vào
tháng 3 năm 1968, chấm dứt đánh bom Bắc Việt để khởi
sự các cuộc đàm phán hòa bình. Nhưng ông luôn tin tưởng
– và đã được chứng minh là đúng – rằng mục tiêu
của Hà Nội là chiến thắng, không phải là một thỏa
thuận hòa giải.
Chỉ
dưới áp lực không ngừng của Washington, ông mới đồng
ý ký hiệp ước hòa bình Paris vào tháng 1 năm 1973, dẫn
đến sự rút lui của quân đội Mỹ, nhưng cho phép Hà
Nội giữ quân tại chỗ ở miền Nam. Ông Thiệu nói rằng,
Tổng thống Richard Nixon hứa Hoa Kỳ sẽ phản ứng mạnh
mẽ đối với bất kỳ nỗ lực nào của Bắc Việt để
chiếm lãnh thổ miền Nam.
Nhưng
một năm sau đó, Tổng thống Gerald Ford đã không làm gì
khi Hà Nội phát động một cuộc tấn công lớn trên địa
bàn tỉnh Bình Long. Đối với cả Hà Nội và ông Thiệu,
tín hiệu đã rõ ràng: Hoa Kỳ đã chán ngấy với chiến
tranh.
Ông
nói sau này: “Người Mỹ đã hứa với chúng tôi –
chúng tôi tin tưởng họ. Tôi đã giành được một cam
kết vững chắc từ đồng minh lớn của chúng tôi, lãnh
đạo của thế giới tự do, rằng khi nào và nếu Bắc
Việt tái xâm lăng, Hoa Kỳ sẽ tích cực và mạnh mẽ can
thiệp”.
Vào
đầu năm 1975, Bắc Việt đã phát động một cuộc tổng
tấn công vào miền Nam Việt Nam, xua toàn bộ các sư đoàn
qua biên giới. Lần lượt hết thị trấn này đến thị
trấn khác thất thủ hầu như không có giao tranh.
Ông
Thiệu chỉ tư vấn có hai thuộc chức trước khi ra lệnh
cho quân đội rút khỏi vùng cao nguyên Trung phần, cho họ
6 tiếng đồng hồ để bắt đầu rút quân – mà sau đó
biến thành một vụ giẫm đạp điên loạn của dân chúng
và binh lính hoảng hốt. Lực lượng của miền Nam Việt
Nam không bao giờ có thể tập hợp lại một cách hiệu
quả xung quanh Sài Gòn.
Tuy
nhiên, ông Thiệu đã không từ chức, bất chấp sự thúc
giục của Washington. Ông dường như không chấp nhận thực
tế về những gì đã xảy ra cho đến khi chỉ huy trưởng
Sài Gòn, Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, sau khi quan sát các
cuộc pháo kích vào quân đội miền Nam ở phía đông thủ
đô, đã nói với ông Thiệu [bằng tiếng Pháp] rằng:
“Thưa Tổng thống, chiến tranh đã kết thúc”.
Vào
ngày 21 tháng 4, với nước mắt giàn giụa, ông Thiệu đã
đọc một bài diễn văn mà trong đó ông đổ lỗi cho Hoa
Kỳ đã không thực hiện lời hứa của họ và bỏ rơi
đồng minh.
“Tôi
từ chức, nhưng tôi không đào ngũ”, ông nói.
Năm
ngày sau đó, ông ra đi, hướng tới Đài Loan trên máy bay
vận tải C-118 của Mỹ, mang theo 15 tấn hành lý và –
theo nhiều bài báo, mà ông Thiệu luôn chối bỏ – số
lượng vàng trị giá 15 triệu USD.
Trong
suốt hơn 25 năm sống lưu vong, ông dự đoán rằng cộng
sản sẽ không tồn tại lâu ở Việt Nam và cảnh báo
rằng Hoa Kỳ không nên “bị dụ” vào chuyện thiết lập
quan hệ ngoại giao với Hà Nội, là điều Washington đã
làm vào năm 1995. Cộng đồng người Việt ở Mỹ ít chú
ý đến ông và chất vấn ông trong một bài phát biểu
hiếm hoi tại Quận Cam vào đầu thập niên 1990.
Ông
nói với tờ Boston Globe vào năm 1992: “Khi
dân chủ được phục hồi ở Việt Nam, tôi có thể nói
rằng giấc mơ của tôi đã trở thành sự thật. Tôi có
thể trở lại với cuộc sống của tôi. Tôi muốn trở
về quê của tôi, nơi đã sinh ra tôi. Đó là nơi đẹp
nhất“.
http://vuottuonglua.co/2015/09/30/ong-nguyen-van-thieu-tong-thong-viet-nam-cong-hoa/
Seema
Mehta và Dennis McLellan, là ký giả của báo L.A. Times, đóng
góp cho bài viết này.
No comments:
Post a Comment