Con
người được sinh ra và trưởng thành từ trong cộng
đồng. Bởi vậy bất kỳ cộng đồng nào cũng đòi hỏi
mỗi người sống trong nó phải có ý thức chung. Nhu cầu
về tự do được xem là một thuộc tính của loài người,
là một quyền tự nhiên của con người. Không có tự do
thì không có khám phá, không có phát minh sáng chế, không
có phát triển…
Nhưng tự do của mỗi cá nhân không thể bị hạn chế bởi những lợi ích nhiều mặt của quốc gia, dân tộc, trước hết là sự ổn định xã hội mà thiếu nó thì mọi phát minh, sáng tạo đều trở nên vô nghĩa. Cuộc sống còn chỉ ra rằng, quyền tự do của người này nếu không có những hạn chế nhất định thì có thể xâm hại đến quyền, lợi ích của người khác. Tự do báo chí cũng không nằm ngoài quy luật ấy.
Nhưng tự do của mỗi cá nhân không thể bị hạn chế bởi những lợi ích nhiều mặt của quốc gia, dân tộc, trước hết là sự ổn định xã hội mà thiếu nó thì mọi phát minh, sáng tạo đều trở nên vô nghĩa. Cuộc sống còn chỉ ra rằng, quyền tự do của người này nếu không có những hạn chế nhất định thì có thể xâm hại đến quyền, lợi ích của người khác. Tự do báo chí cũng không nằm ngoài quy luật ấy.
Nhìn
lại lịch sử tự do ngôn luận, tự do báo chí là một
quyền cơ bản của con người, có lịch sử ra đời sau
cuộc vùng dậy của nhân dân Pháp đập phá ngục tù
Bastille (Paris) vào ngày 14-7-1789, lật đổ thể chế vương
quyền để thành lập nền cộng hoà Pháp dựa trên ba yếu
tố: Tự do, Bình đẳng, Bắc ái. Ngay trong năm 1789, Quốc
hội Mỹ chỉnh lý hiến pháp lần đầu tiên công nhận
quyền tự do ngôn luận tại quốc gia này. Kể từ đó,
quyền tự do ngôn luận tại quốc gia này bắt đầu tràn
sang một số nước châu Âu và châu Mỹ. Năm 1948 LHQ thông
qua Tuyên ngôn thế giới về quyền con người trong đó
công nhận tất cả mọi người đều hưởng tự do ngôn
luận. Quy ước nhân quyền châu Âu ra đời năm 1950, Công
ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm
1966 cũng xác định quyền tự ngôn luận là quyền cơ bản
của con người.
Tuy
nhiên, quyền tự do báo chí không phải là không có giới
hạn. Quy ước nhân quền châu Âu, Điều 10-2 quy định:
“Quyền tự do ngôn luận lúc nào cũng bị hạn chế bởi
một số thể thức, một số điều kiện và hình phạt
mà luật pháp đã quy định”. Điều 19, Công ước quốc
tế về các quyền dân sự, chính trị khẳng định, khi
thực hiện quyền tự do ngôn luận không được làm tổn
hại đến danh dự và nhân phẩm người khác, lợi ích
quốc gia, trật tự công cộng.
Quy
ước nhân quyền châu Âu có những điều lệ vô cùng
khắt khe để ngăn chặn mọi hành động nhũng lạm đối
với quyền tự do ngôn luận. Điều 10-2 quy định: “sử
dụng quyền tự do ngôn luận lúc nào cũng đi đôi với
bổn phận và nghĩa vụ đã được quy định trong một số
thể thức, điều kiện và sự trừng phạt mà phát luật
đề ra”. Trong một xã hội tự do và dân chủ, thiết kế
những điều lệ nhằm giới hạn một số quyền tự do
ngôn luận là biện pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ an ninh
trật tự, luân lý và đạo đức; tôn trọng danh dự và
nhân phẩm người khác. Điều này hoàn toàn đúng với
nguyên lý của C.Mác đưa ra hơn 100 năm trước: “Tự
do báo chí bao giờ cũng có, vấn đề là tự do báo chí
cho ai và tự do để làm gì”
như vậy sống trong xã hội nào thì tự do báo chí cũng
bị giằng buộc về tính chính trị của đất nước đó,
người làm báo chịu trách nhiệm trước pháp luật về
những phát ngôn của mình.
Điều
29 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền khẳng định:
“Trong khi thụ hưởng các quyền và tự do cá nhân, phải
chịu những hạn chế do luật định nhằm mục đích duy
nhất là bảo đảm việc thừa nhận và tôn trọng đối
với các quyền và tự do của những người khác và phù
hợp với những đòi hỏi chính đáng về đạo đức,
trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội
dân chủ”.
Đối
chiếu với pháp luật quốc tế về tự do báo chí cho
thấy pháp luật Việt Nam về vấn đề này hoàn toàn
tương thích. 4 bản Hiến pháp của Việt Nam trước đây
và mới nhất là Hiến pháp năm 2013 đều quy định cụ
thể về quyền tự do ngôn luận. Điều 25, Hiến pháp năm
2013 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, tiếp cận thông tin, lập hội, biểu tình. Việc
thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Điều
14.2 ghi rõ: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có
thể bị hạn chế theo quy định của pháp luật trong
trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc
gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khoẻ của cộng đồng”. Để cụ thể hoá quyền hiến
định này, Nhà nước ta đã ban hành luật Báo chí 1989 và
sử đổi bổ sung năm 1999, Luật xuất bản năm 2001 và
đang soạn thảo Luật tiếp cận thông tin. Hiện Bộ Thông
tinvà Truyền thông đã tổng kết 15 năm thi hành luật Báo
chí năm 1989 trên cơ sở đó xây dựng Dự án luật báo
chí mới và đang được tổ chức lấy ý kiến các tổ
chức cá nhân trên trang thông tin điện tử của Bộ, Đề
án “Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí đến năm
2025” cũng đang chuẩn bị triển khai…
Việt
Nam đã và đang làm tất cả những điều cần thiết để
đổi mới, phát triển đất nước, đảm bảo quyền con
người, quyền công dân, mang lại hạnh phúc cho nhân dân.
Báo chí Việt Nam có quyền đề cập tất cả các vấn đề
mà pháp luật không cấm. Pháp luật chỉ cấm báo chí
kích động nhân dân chống Nhà nước; phá hoại khối đại
đoàn kết toàn dân tộc; kích động bạo lực; tuyên
truyền chiến tranh xâm lược; gây hận thù giữa các dân
tộc và nhân dân các nước; kích động dâm ô, đồi
trụy, tội ác; tiết lộ bí mật nhà nước; đưa tin sai
sự thật, xuyên tạc, vu khống nhằm xúc phạm danh dự
của tổ chức, nhân phẩm của cá nhân. Hiểu đúng về
quyền tự do báo chí, đội ngũ những người làm báo
Việt Nam cần phải hiểu đúng về quyền và nghĩa vụ
của mình đối với dân tộc, với đất nước và nhân
dân. Điều đó giúp cho dân tộc Việt Nam trở thành một
khối thống nhất, nhân tố quyết định cho sự ổn định,
hoà bình và bền vững.
Âm
mưu của Mỹ, phương Tây đối với Việt Nam là không
thay đổi. Dã tâm muốn lật đổ chế độ, tác động
hướng lái Việt Nam theo quỹ đạo của chúng chưa bao giờ
từ bỏ. Với âm hưởng từ các cuộc cách mạng màu, mùa
xuân Ả-rập luôn là sự khích lệ đối với chúng. Thực
hiện chiến lược diễn biến hoà bình tiến tới bạo
loạn lật đổ là một âm mưu chúng ta đã nhận diện từ
lâu nhưng nó vẫn luôn sống dai dẳng vì nó được sinh
ra và nuôi bởi những quốc gia giàu có trên thế giới.
Thêm vào đó, lũ “rận chủ” luôn là những con chó
trung thành luôn sủa thuê cho những quốc gia này vì những
trang web danlambao.blog.spot.com quanlambao.blog.spot.com… có một
đội ngũ luôn xưng danh đấu tranh cho “dân chủ, nhân
quyền” đấu tranh cho sự tự do không giới hạn của
báo chí, ngôn luận hoạt động rất tích cực.
Thủ
đoạn của lũ rận chủ là lợi dụng những vấn đề
nóng bỏng kích động quần chúng nhân dân. Lợi dụng tự
do ngôn luận để tuyên truyền vu cáo, xuyên tạc tình
hình Việt Nam. Chúng cho rằng Việt Nam không có tự do
ngôn luận, bị giới hạn về tự do báo chí. Nhưng những
gì mà bầy rận chủ sủa thuê cho Mỹ, phương Tây thì
chính những nứơc đó đang có những điều luật khắt
khe về tự do báo chí, chưa bao giờ ở những quốc gia đó
có sự tự do báo chí vô hạn cả vì vậy rận chủ xuyên
tạc tự do báo chí ở Việt Nam chẳng khác nào tự vả
vào mồm chúng vậy.
Vậy
lý do gì mà ở phương Tây có sự giới hạn về tự do
báo chí nhưng chúng lại luôn đòi Việt Nam cần phải có
sự tự do vô hạn về tự do báo chí?? Đơn giản vì
chúng muốn được công khai xuyên tạc, vu khống, nói xấu
tuyên truyền những vấn đề sai sự thật ở Việt Nam
hòng làm cho nhân dân mất niềm tin vào Đảng và Nhà nước
để từng bước gây phẫn nộ rồi biểu tình lật đổ
chế độ này như kịch bản đã từng xảy ra ở các nước
Đông Âu, Trung Đông, Ả-rập và gần nhất là Ukraine. Hậu
quả của những cuộc biểu tình thì tất cả ai cũng rõ,
đất nước rối ren, mất ổn đinh, huynh đệ tương tàn,
nhân dân đói khổ ly tán khắp nơi. Rồi dựng lên chính
quyền thân Mỹ, vơ vét tiền của nhân dân, cho các nước
phương Tây khai thác tài nguyên khoáng sản của đất
nước. Thậm chí, những chính quyền này còn cho Mỹ biến
thành “mồ chôn” với hàng ngàn chất thải phóng xạ
trên chính đất nước của mình điển hình như Ukraine.
Chúng ta hãy cảnh giác, trân trọng nền tự do, hoà bình.
Đừng để lũ rận chủ sủa vào tai những điều vu
khống.
Nguồn: Chiến Thắng - nguoiconyeunuoc.wordpress.com
No comments:
Post a Comment