Nguyễn
Văn Thịnh
Gần
đây cuốn tự truyện Đèn cù của tác giả Trần Đĩnh,
đang sống tại TPHCM nhưng sách được in từ hải ngoại,
được quảng bá rầm rộ như một hiện tượng lạ của
văn chương. Thực ra sách vở bây giờ ê hề và quan điểm
của người đọc cũng rất đa dạng, lại trong hoàn cảnh
xã hội đã cởi mở nhiều nên sự đánh giá hay dở,
đúng sai cũng khó, thậm chí loạn xà ngầu! Ai thích gì
đọc nấy. Tuy nhiên người cầm bút đều thấm thía lời
dạy của cổ nhân: “Văn là người”. Dù chỉ là dăm
câu thơ mấy chục từ hay là cuốn sách dăm bảy trăm
trang hàng vạn từ, người đọc cũng có thể nhận diện
được người viết cùng tài năng nhân cách của họ. Đó
là cái “thần” của chữ nghĩa văn chương.
Trần
Đĩnh là ai?
Bút
danh Trần Đĩnh dường như đã xóa nhòa trong bộ nhớ của
giới văn hóa văn nghệ lớp U50 về trước! Trong một
cuộc gặp mặt tình cờ mấy bạn văn báo ngồi ấm trà
chén nước, tôi hỏi: “Các ông biết Trần Đĩnh là ai
và cuốn Đèn cù liệu có bao nhiêu phần trăm sự thật?”.
Một anh bạn vào lớp U60 nói: “Chú Trần Đĩnh rất thân
với bố em, dạo ở Hà Nội chú ấy thường đến nhà
em. Chú ấy từng viết hồi ký cho các ông Hoàng Quốc
Việt, Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Nguyễn Đức Thuận...
Còn chuyện đúng sai thế nào thì không dám bình vì em
thuộc lớp con cháu, từng điếu đóm hàng cha chú. Chỉ
có một điều em biết rõ ông Phan Đăng Tài là anh chứ
không phải là cha ông Phan Đăng Lưu. Em nghĩ chú ấy không
thể nhầm như thế được!”. Tự điển Wikipedia mãi
tháng 9/2014 sau khi ra cuốn tự truyện Đèn cù mới có tên
Trần Đĩnh nhưng lời giới thiệu nghèo nàn, y như từ
cuốn tự truyện sao ra. Theo đó, cha ông là thầy giáo,
bạn đào viên với Nguyễn Thái Học, Đỗ Ngọc Du (tức
Phiếm Chu). Thời học trường Bưởi có tham gia phong trào
học sinh bãi khóa để tang cụ Phan Tây Hồ, bị đuổi
học và bị ghi vào sổ đen của mật thám. Thế là sợ,
về đi làm và ăn chơi. Theo mẹ ông kể để ăn chơi thì
phải hối lộ, thế là sinh hư, bà buồn lòng nhận xét:
“Điều này ba con xoàng”! Kháng chiến, chạy tản cư về
quê vợ. Bị Chủ tịch huyện dù là bạn cũ chuẩn bị
cho du kích về bắt. Nhờ người quen báo nên chạy thoát
về thành rồi di cư vào Nam. Vào đầu những năm 1960, lớp
sinh viên chúng tôi đọc rất say mê những truyện dài
đăng tải trên báo Nhân dân như: “Nhân dân ta rất anh
hùng”, “Trong xà lim án chém”, “Gặp Bác ở Paris”.
Tôi nhớ mãi trong chuyện này có một tiểu tiết khi anh
Thành bí mật từ Mascơva về Marseille, gặp Bùi Lâm, đêm
nằm tâm sự thì Bùi Lâm lại xưng hô “bác-cháu” (!)
dù lúc đó tuổi hai người không chênh nhau bao nhiêu và
sự nghiệp của vị lãnh tụ tương lai đang long đong lận
đận! Riêng chuyện dài “Từ những cuộc chiến đấu ác
liệt thắng lợi trở về”, sau đổi thành “Bất
Khuất”, sách in rất đẹp. Hành quân trên đường Trường
sơn, mỗi tổ được một cuốn. Anh em truyền tay nhau đọc
nhiều lần. Sau bởi những tờ giấy trắng mỏng quá hấp
dẫn với những anh nghìền thuốc nên cuốn sách cứ teo
tóp dần, đến trạm cuối phân tán mỗi người mỗi ngả,
cuốn sách cũng không là mối bận tâm của riêng ai. Các
truyện đó cuốn hút người đọc trước hết bởi những
con người và sự kiện diễn ra trong hoàn cảnh đối
kháng quá ư là khắc nghiệt. Cứ như là những nhân vật
chính kể ra cho người nghe ngồi đó nên cũng chẳng cần
tò mò tìm hiểu ai là người chấp bút. Tất nhiên là có
phần tài năng của họ. Nhưng với người lấy văn làm
nghiệp chỉ coi đó là giai đoạn mở đầu thuận lợi.
Bởi họ cần những tác phẩm của chính mình. Thế là
sau hơn nửa thế kỷ gác bút ẩn danh, bây giờ nhà thơ,
nhà báo Trần Đĩnh mới có dịp được thể hiện chính
mình bằng cách cho đứa con rứt ruột chào làng dù có
muộn màng! Tôi chợt nhớ câu ca dân dã: “Bà già đã
tám mươi tư / Ngồi trong cửa sổ viết thư kén chồng”.
Liệu sự hoài thai đứa trẻ này có được như “lão
bạng sinh châu”?
Tập
Đèn cù mà chính tác giả chưa xác minh thể loại là hồi
ký, tự truyện, truyện tôi hay là một dạng tiểu thuyết
kiểu mới…? Nghĩa là chưa xác minh thể loại gì, coi như
là một phát kiến văn học mới lạ lắm! Cuốn sách dày
600 trang, tôi đọc hai lần không phải vì nó hay mà vì nó
cố tình khơi dậy những sân hận hư thực của một thời
đã qua, được một nhóm người tà ý ra sức “lăng xê”
hòng khuất lấp sự thực hiển nhiên: một dân tộc mất
nước đã chấp nhận mọi gian khổ hy sinh, chiến đấu
kiên cường giành lại tổ quốc Việt Nam độc lập,
thống nhất, có chủ quyền, có vị trí trong cộng đồng
quốc tế, đang cùng các quốc gia xây dựng một nền hòa
bình, ổn định và thịnh vượng. Tất nhiên những cố
tật trầm kha đang là rào cản bước đi lên để các thế
lực chống đối trong ngoài ra sức khai thác và lợi dụng.
Người
giới thiệu nói rằng “mục đích của tác giả lúc đầu
chỉ là tố cáo nhà cầm quyền gây ra nội chiến Bắc-Nam
là sai lầm nhưng sau đổi ra hướng phê phán toàn diện”!
Viết một tác phẩm lớn dài hơi phải có chủ đích rõ
ràng, đầu tư trí tuệ và thu thập tư liệu công phu. Chỉ
từ đơn sơ ý thức một chiều bôi đen lịch sử rồi
chuyển thể từ cuốn hồi ký kéo dài lê thê thành tiểu
thuyết, ắt hẳn không tránh được lúng túng bị động
nên mới lộ ra cái sự lủng củng quẩn quanh với các sự
kiện bao lâu nay xã hội chẳng lạ lẫm gì. Nhất là ở
cái tuổi “lực bất tòng tâm”, lại nhìn đời, nhìn
người bằng đôi con mắt có cườm! Chính tác giả đã
tự biến thành cái cái “đèn cù Trần Đĩnh”, trái hẳn
với ý của ông cò văn chương là để ám chỉ một “xã
hội đèn cù”!
Một
người đã ở tuổi đại thượng thọ bát tuần rồi mà
phải thề rằng: “Tôi xin đối mặt với công luận đấy.
Tôi mà ăn gian nói dối thì các ông cứ việc vạch mặt
ra”! Thế thì lớp đàn em con cháu có chứng lý gì mà
vạch mặt lão tổ sư bồ đề ra chớ?
Đặc
biệt lớp chứng nhân đồng trang lứa đa phần đã ngủ
yên nơi cõi thiên thu. May ra còn vài ba vị vào tuổi ấy
cũng đã nhớ nhớ quên quên như chính ông bạn già này
cứ lẫn lộn quẩn quanh không phân biệt nổi giữa hư và
thực của những ngày xa xưa với hiện tại rối mù hôm
nay!
Mỗ
tôi may được trời cho sống qua tuổi “cổ lai hy”
nghĩa là chẳng những “nghe người ta nói biết ngay điều
phải quấy” (Lục thập nhi nhĩ thuận) mà có “làm theo
lòng ta muốn cũng chẳng có gì trái khuôn phép cả”
(Thất thập nhi tòng tâm sở dục bất du củ). Vậy nên
những điều ông Trần nói ra, mỗ tôi không dám bình sai
đúng mà chỉ nêu lên một số điều thấy là “không
thuận nhĩ”.
Một
là:
Ông
Trần Đĩnh bỏ nhiều công sức chứng minh rằng mấy mươi
năm qua, ĐCSVN đưa dân đưa nước tưởng đi mà đứng,
cứ vòng vo luẩn quẩn như cái đèn cù! Vẫn chỉ là mấy
con voi giấy, ngựa giấy vòng vo tít mù. Hãy đi thẳng vào
điều cốt lõi: ĐCSVN chính thức ra đời đầu năm 1930.
Mục đích tối thượng của Đảng là: “Đánh đuổi Đế
quốc xâm lược đồng thời đánh đổ chế độ phong
kiến tay sai, giành độc lập thống nhất cho tổ quốc,
quyền tự chủ cho dân tộc, thành lập chính quyền dân
chủ nhân dân, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, giàu mạnh, dân chủ, văn
minh, công bằng tiến bộ theo trào lưu tiến hóa của thời
đại”. Thực tế là ĐCS đã lãnh đạo nhân dân ta đánh
thắng thực dân Pháp trong tương quan lực lượng chênh
lệch thế nào mọi người đã biết. Chúng ta tiếp tục
đánh thắng đế quốc Mỹ giữa tình hình trong nước và
thế giới phức tạp thế nào mọi người cũng đã biết.
Chúng ta bảo vệ vững chắc một nước Việt Nam thống
nhất, độc lập, giữ vững chủ quyền trong khung cảnh
hòa bình, hữu nghị và xây dựng đất nước ổn định
ngày một đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như thế nào mọi
người cũng đã biết. ĐCS thừa nhận đã mắc những sai
lầm nghiêm trọng trong quản lý kinh tế, tổ chức xã hội
và ngay cả trong công tác xây dựng Đảng, đã kìm hãm
bước đi lên của tổ quốc ta như thế nào mọi người
đều đã biết. Nhìn lại thành quả của 84 năm qua phấn
đấu cực kỳ gian nan vất vả, hy sinh vô bờ bến mà
những người CSVN luôn đứng ở hàng đầu để được
như ngày hôm nay thì đó là bước đi thẳng tiến từ
không đến có, từ ít đến nhiều, từ thấp lên cao chứ
đâu có vòng vo quanh quẩn như cái đèn cù? Dù rằng từng
thời kỳ, từng bước đi có khúc khuỷu quanh co lên thác
xuống gềnh. Trên chặng đường ấy, những lãnh tụ tài
ba tâm huyết của ĐCSVN nhiều khi phải như người làm
xiếc trên giây lúc tiến lúc lùi để giữ sự thăng bằng
giữa nhiều thế lực. Giữa hai vị TBT xuất sắc Trường
Chinh và Lê Duẩn, dù mỗi người một phong cách nhưng đều
thống nhất. TBT Trường Chinh khẳng định:“ Đường lối
của Đảng ta là liên tục phát triển có kế thừa, không
có chuyện thay đổi đường lối cũng như chấm dứt cái
này cái kia”. Trong một bản tổng kết, TBT Lê Duẩn viết
đại ý như sau: Để có một tổ quốc Việt Nam độc
lập-thống nhất, chúng ta đã không sợ Mỹ, không sợ
Liên Xô, không sợ Trung Quốc. Nếu Trung Quốc và Liên Xô
thống nhất với nhau, không chắc Hoa Kỳ có dám đánh
chúng ta hay không? Nếu hai nước thống nhất và liên kết
với nhau để giúp chúng ta, không chắc Hoa Kỳ có dám
đánh chúng ta như cái cách mà họ đã đánh! Vì thế, để
thắng Mỹ, chúng ta phải đoàn kết thật sự với Liên
Xô và Trung Quốc, vì đó là hai lực lượng tiến bộ
mạnh nhất của thời đại. Rứt khoát không thể phân
hóa một trong hai lực lượng đó mới có thể giúp ta
hoàn thành sự nghiệp trước tổ quốc và dân tộc. (Về
tập đoàn phản động TQ chống VN). Và ĐCSVN đã thực
hiện được mục tiêu tối thượng của mình trong khi
Liên Xô thì tan rã, Trung Quốc dù còn ở vị trí thượng
phong nhưng luôn bị sức ép từ những nước lớn và các
quốc gia gần xa dù có bị lệ thuộc ít nhiều nhưng
thường xuyên cảnh giác đề phòng không dễ sai khiến
người ta. Mỗi chúng ta có thể tự giải thích cho mình
về tất cả những biến diễn phức tạp trong bước đi
lên trên cơ sở đường lối tư tưởng chiến lược đó.
Rất may hồng phúc tổ tiên Đại Việt đã chọn thời
điểm phù trợ cho con cháu hoàn thành sứ mạng lịch sử
của mình. Tất nhiên, lịch sử của dân tộc là một quá
trình vô tận. Mỗi lúc một yêu cầu bức thiết khác
nhau, đòi hỏi mỗi tập đoàn lãnh đạo từng thời kỳ
phải có tâm lớn xứng với tầm thời đại để hoàn
thành nhiệm vụ lịch sử của mình.
Xem
ra lúc về già, Trần Đĩnh vẫn ngập ngụa trong những
sai lầm của cá nhân mình để chưa thể nhìn ra sự thật,
cứ mãi luẩn quẩn loanh quanh với những con voi giấy,
ngựa giấy sự kiện cũ rích của cái đèn cù, tự biến
mình thành đứa trẻ ngây ngô trong một thú vui chốc lát!
Hai
là:
Sau
KC chống Pháp thắng lợi, về thành, khi mới có chỗ đứng
nhất định, một hôm Trần Đĩnh xấc xược hỏi ông
Quang Đạm: “Hồi ấy anh nghĩ về tôi thế nào?”.
“Nhóc!”. Từ “nhóc” không hàm nghĩa khinh nhưng ám
chỉ là thằng bé giúp việc, chưa có chỗ đứng vững
vàng. Trong cơ quan báo Sự thật lúc đó giữ vai trò chủ
chốt là ông Trường Chinh cùng các ông Quang Đạm, Lê
Quang Đạo vào hàng cha chú, đều có học và từng trải;
các ông Phan Kế An, Hà Xuân Trường, Thép Mới đều là
đàn anh đã qua thử thách tay nghề và nhiều cây bút lớn
thường xuyên hợp tác. Vậy mà sau khi xử vụ đại điền
chủ Nguyễn Thị Năm – Cát-Hanh-Long ở đồn điền Đồng
Bẩm Thái Nguyên, ông Trường Chinh mới chỉ đạo “thằng
nhóc” Trần Đĩnh làm một việc quan trọng là “nổ
phát pháo đầu ca ngợi sức mạnh của bần cố nông”!
Mặc dầu Trần Đĩnh không dự buổi đấu tố thì ông
Trường Chinh bảo cứ dựa vào cáo trạng của Đội và
khai thác ở người cấp dưỡng tên Văn cùng theo ông
xuống dự mấy ngày! Trần Đĩnh không có mặt trong mấy
buổi đấu tố đó vậy mà biết Cụ Hồ bịt râu tới
dự một buổi (!) và ông Trường Chinh đeo kính râm dự
liền mấy buổi (!) Ông Trường Chinh với bí danh Thận,
nổi tiếng là người thận trọng trong từng lời nói,
bài viết và cách ứng xử chặt chẽ, có phần khe khắt,
liệu có dễ làm một việc bất cẩn hồ đồ như vậy
với một phóng viên tập sự lại chưa có quá trình rèn
luyện thử thách? Để phối hợp với bài báo của Trần
Đĩnh lại có bài báo “Địa chủ ác ghê” (tác giả CB
tức là Của Bác) vạch tội ác của mẹ con địa chủ
Nguyễn Thị Năm. Viết phóng sự đã không tận mắt chứng
kiến và khi báo đã phát hành rồi thì phóng viên Trần
Đĩnh còn xuống hiện trường làm gì để được nghe nhà
báo Tiêu Lang kể lại rằng: Bắn bà Năm rồi, chiếc áo
quan chật quá, mấy anh du kích nhẩy lên vừa nhún vừa
hô: “Xem có ngoan cố nổi với mấy ông bà nông dân
không này?”. Xương gãy cứ là kêu răng rắc! Đây là
vấn đề cực lớn, ai cũng muốn làm rõ ra. Minh bạch
điều này không khó. Bà Cát-Hanh-Long bị xử bắn ngày 29
tháng 5 ÂL/1953. Vào thời điểm này, để kết thúc cuộc
chiến tranh, Navarre chuyển hướng mặt trận chính lên
Tây-Bắc, tất nhiên vùng căn cứ bấy lâu nay không là
hậu phương an toàn nữa. Vậy hãy vào kho lưu trữ của
báo Nhân Dân hoặc truy cứu tàng thư kỷ yếu sinh hoạt
của các yếu nhân tại các thư viện lớn hoặc các kho
lưu trữ, chắc chắn sẽ làm rõ ra điều đó, rồi sao
chụp công bố cho thiên hạ coi tường. Mục đích viết
về sự thật, là nhà báo chân chính phải tìm tới ngọn
nguồn để khẳng định tài năng tư chất nghề nghiệp
của mình. Cho dù sự thật có phũ phàng cũng giúp con
người ta hoàn chỉnh nhận thức về nhân sinh thế sự:
Dù là vĩ nhân vẫn vấp phải những sai lầm làm tổn hại
uy tín của chính mình! Ông Trường Chinh mà trước sau
Trần Đĩnh vẫn tỏ ra kính phục, là người thế nào khi
chỉ đạo một phóng viên không thực chứng phiên tòa xử
tội chết oan một người đàn bà có công lao trong buổi
đầu cách mạng mới thành công? Nhưng với tư cách nghề
nghiệp phải chăng có vì háo danh mà phóng viên Trần Đĩnh
đã chấp nhận làm một điều vô đạo? Trần Đĩnh cũng
không “mục sở thị” ông Chu Văn Biên, năm 1953 làm bí
thư đoàn ủy CCRĐ Nghệ -Tĩnh, chễm chệ ngồi trên thềm
cao chỉ mặt mẹ tố cáo kẻ thù giai cấp (!) để đến
nỗi bà cụ cắn lưỡi không chết, phải gieo mình xuống
giếng quyên sinh?! Lại cũng chính ông ta sai trói gô bố
đẻ Phan Đăng Lưu – nhà cách mạng tiền bối, là Phan
Đăng Tài (?!), lùa ông cụ vào đòn ống tre khiêng lên
trại tù, ông cụ réo tên thằng con và lũ đàn em của nó
lên mà chửi rồi chết mất xác! Vậy mà năm 1967
Phan Đăng Tài sống lại và làm người phụ trách thư
viện báo Nhân dân sơ tán ở Hải Hưng đã cho nhà báo
Trần Đĩnh mượn tập kịch của Becthold Brech để ông
“sáng tạo” nên hình ảnh khôi hài châm biếm về những
tấm gương anh hùng trong cuộc chiến tranh giải phóng đầy
hy sinh gian khổ của nhân dân ta?!
Ba
là:
Ở
tuồi 19 lúc bấy giờ, lớp thanh niên thành phố có học
cỡ diplome, BACI, BACII, sinh viên các trường đại học,
thậm chí có không ít trí thức bỏ lại cả sự “vinh
thân phì gia” đi theo kháng chiến ào ào mà mấy người
được lọt vô cửa cấm như chàng trai Trần Đĩnh chưa
có thành tích gì nổi bật, quả là có thần nhân dắt
anh vào cửa Phật. Được nhập môn người thầy tài năng
đức độ và uy tín lớn như Trường Chinh là cửa đời
quá rộng mở với bất kỳ ai. Và khi tiếng súng vừa
dứt, yêu cầu cán bộ có văn hóa về tiếp quản thị
thành như cái thùng không đáy mà TBT dứt khoát chọn Trần
Đĩnh sang Trung Quốc đào tạo bài bản khơi nguồn trí
tuệ cho thế hệ tương lai của nước Việt Nam độc lập,
khác chi là bắc thang cho Trần Đĩnh lên Trời. Thời điểm
đó Trung Quốc là chiếc cầu nối ta với Liên Xô và quan
hệ Việt-Trung gắn bó mặn nồng. Kết thúc khóa học bốn
năm, Trần Đĩnh về nước. Tưởng mình đã được tuyển
vào “đội ngự lâm quân” hay “lính gác tư tưởng của
Đảng” mà ngoài việc làm đáng kể nhất là viết được
mấy tập hồi ký của vài nhân vật nổi tiếng như đã
nói ở trên thì không hiểu sao người thầy có uy tín
toàn năng đỡ đầu từ thuở nhập môn cách mạng là vị
TBT nổi tiếng về trí tuệ và nhân cách đã nhận xét
thẳng thắn rằng: “Không ngờ Trần Đĩnh lại sa đọa
chính trị đến thế!”. Đó là điều lý giải rõ nhất
vì sao Trần Đĩnh hôm nay đang sống và viết những gì?!
Riêng
với ông Lê Đức Thọ tuổi cũng vào hàng cha chú, ở
cương vị Thường vụ Trung ương Đảng. Một năm trước
khi “thằng nhóc” Trần Đĩnh lên chiến khu Việt Bắc,
ông đã được cử vào Nam tăng cường cho sự lãnh đạo
của xứ ủy Nam kỳ và cùng với Lê Duẩn như cặp bài
trùng. Năm 1955, tập kết ra Bắc, Lê Đức Thọ lại được
bổ sung vào Bộ Chính trị, kiêm nhiệm vai trò Trưởng
Ban Tổ chức TƯ. Phóng viên Trần Đĩnh chỉ được tiến
cử khi ông Thọ cần người viết hồi ký của Nguyễn
Đức Thuận nhằm kích thích tinh thần trung thành với
Đảng và quyết tử vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng
miền Nam, thống nhất nước nhà. Cuốn “Bất khuất”
gây được tác dụng chính trị lớn, tất nhiên tác giả
được lọt vào mắt xanh của nhà lãnh đạo. Tuy nhiên
trong tình hình chính trị quốc tế và trong nước phức
tạp xảy ra lúc đó, anh phóng viên Trần Đĩnh trẻ người
non dạ đã lộ ra những nết xấu gì để vị TBT kiêm
nhiệm công tác văn hóa tư tưởng dày dạn kinh nghiệm
đưa ra nhận xét nghiêm khắc như trên?! Tất nhiên là ông
Lê Đức Thọ không ngớ ngẩn để tin và dùng Trần Đĩnh.
Nhiều
bạn trẻ hôm nay bị nghe nhiều điều đơm đặt chứ
thực ra cái gọi là “nhóm chống đảng” cho đến nay
mới chỉ là những thông tin lọt kẽ, kín hở một chiều,
chưa biết độ chính xác tới đâu. Đơn giản vì nó chưa
được bạch hóa nên cần phải tỉnh táo tìm hiểu và
lắng nghe trên cơ sở thực tế lịch sử lúc bấy giờ.
Sau khi Staline chết, năm 1956, đại hội XX ĐCSLX do
Khơrutsốp thao túng đã triệt để phanh phui cái gọi là
tội ác của Staline và trương lên khẩu hiệu “chống
sùng bái cá nhân lãnh tụ”. Năm 1960, hội nghị 81 đảng
cộng sản và công nhân quốc tế ra “Tuyên bố Mascơva”,
dấy lên cuộc đấu tranh rầm rộ chống “CN xét lại
hiện đại” và “CN giáo điều”. Chủ nghĩa Marx không
phải là cẩm nang màu nhiệm cho sự phát triển toàn diện
của mỗi quốc gia dân tộc. Chiến tranh sẽ không là định
mệnh. Hai phe TB và XHCN có thế cùng nhau “chung sống hòa
bình”. Đó là khởi đầu sự phân hóa của phong trào
CSQT, cũng như của nhiều ĐCS trên toàn thế giới. Cuối
cùng chủ nghĩa nọ chống chủ nghĩa kia đã như trò hề
bởi nó biến thành cuộc tranh giành quyết liệt ngôi đầu
lĩnh! Khẩu hiệu “Chống sùng bái cá nhân” đã bị lạm
dụng để giải quyết các ân oán hoặc mưu đồ thoán
nghịch! Giữa lúc ấy ĐCSVN trên cơ sở nghị quyết
XV/ĐHII phát triển thành nghị quyết IX/ĐHIII, quyết tâm
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước bằng hình
thức bạo lực cách mạng. Cụ Hồ tỏ ý không đồng
tình về thái độ cực đoan chống Liên Xô chớ về vấn
đề vũ trang CMMN thì khi nghị quyết XV còn đang được
bàn bạc cân nhắc đắn đo trong nội bộ, Cụ đã tế
nhị nói ra quan điểm của mình: “Bất kỳ tình hình như
thế nào cũng không được để địch tàn sát dân, tiêu
diệt cơ sở cách mạng. Bác phê bình đảng bộ miền Nam
thiếu sáng tạo, chỉ biết phục tùng cấp trên” (Hồi
ký Phạm Văn Xô và Phan Văn Đáng). Vì thế hội nghị TƯ
mới có sự nhất trí cao. Vào thời điểm song song tồn
tại hai quan điểm đối kháng “diễn biến hòa bình”
và “trường kỳ mai phục” mà những nhà lãnh đạo
CMVN đồng thuận quyết tâm đề ra chủ trương ấy thật
hết sức táo bạo mà đúng lúc. Thực tế chứng minh đó
không phải là một hành động phiêu lưu. Không phải ngẫu
nhiên vào nửa đầu thập kỷ 1960, nhiều cán bộ trung
cao cấp quân sự, chính trị qua học ở Liên Xô đồng
loạt không về nước. Cùng lúc ở trong nước những
người theo quan điểm “không dùng bạo lực” công khai
bộc lộ ý đó ra. Đồng thời Khơrútsốp gây đòn tâm
lý bằng cách tạo nên những mối quan hệ cá nhân với
người này người nọ khiến nội bộ lãnh đạo nghi kỵ
đề phòng lẫn nhau. Trong khi đó, ở miền Nam, Mỹ quyết
định mở rộng cuộc “chiến tranh can thiệp” thành
“chiến tranh cục bộ”, thẳng tay gạt bỏ mọi lực
cản, thảm sát chế độ gia đình trị họ Ngô, dùng đám
quân sự võ biền bất cần quyền lợi quốc gia dân tộc,
mở rộng cửa đón cả triệu quân Mỹ và quân các nước
đồng minh lệ thuộc. Việc tài liệu tối mật về nghị
quyết IX lọt vào một sứ quán nước ngoài được nghi
rằng liên quan tới những người có mối giao du thân
thiết với công dân nước đó. Tất nhiên, trong chiến
tranh có thống nhất ý chí mới tạo nên sức mạnh tổng
hợp thì khái niệm về tự do dân chủ thật là khắc
nghiệt! Hàng loạt cán bộ các cấp bị vô hiệu hóa hoặc
bị bắt tù đày, chủ yếu là những người hoạt động
trong giới quân sự, ngoại giao, văn hóa. Sự kiện này
hoàn toàn khác vụ Nhân văn-Giai phẩm xảy ra cả chục
năm trước đó với đối tượng chủ yếu là giới văn
nhân nghệ sỹ mà lúc đó Trần Đĩnh còn đang học làm
báo bên Trung Quốc. Mãi sau chiến thắng 1975, số người
này lần lượt được trở về với đời thường. Một
số vị lão thành được phục hồi đảng tịch và nhận
được sự hỗ trợ phần nào về tổn thất tinh thần và
vật chất. Tất nhiên là không thể thỏa lòng giữa công
và tội cùng với nỗi mất mát oan khiên của từng người.
Điều cần phân biệt rõ ràng là bản chất vụ kỷ luật
gọi là “xử lý nội bộ” này hoàn toàn khác hẳn cuộc
thanh trừng lẫn nhau để tranh giành quyền bính như cuộc
CMVH xảy ra cùng thời ở nước láng giềng. Không thể
phủ nhận rằng quá trình thực hiện Nghị quyết IX, hàng
ngũ lãnh đạo tối cao từng lúc, từng việc tuy có nhận
thức khác nhau nhưng điều hòa được bởi họ là những
nhà yêu nước lớn, từng trải, luôn coi lợi ích quốc
gia dân tộc là điều tối thượng, lại có sự hóa giải
khéo léo và ảnh hưởng rất lớn của Cụ Hồ, đã biết
kiềm chế nhân nhượng, vô tư cống hiến để đi đến
thắng lợi vĩ đại 30 tháng Tư lịch sử. Xét về thân
phận những người bị nạn đó là nỗi hận không ai có
thể thấu hiểu để được sẻ chia. Nhưng nhìn ở góc
độ trách nhiệm trước đại sự quốc gia của giới
điều hành, lịch sử có thể khoan dung.
Sự
phân cấp quản lý cán bộ trong Đảng vốn rất chặt
chẽ. Những nhân vật trong nhóm gọi là xét lại chống
Đảng, thực ra chỉ là không đồng quan điểm như Ung Văn
Khiêm, Nguyễn Văn Vịnh, Đặng Kim Giang, Lê Liêm, Hoàng
Minh Chính, Vũ Đình Huỳnh đều thuộc Ban Bí Thư và Bộ
chính trị quản lý. Tất nhiên Trưởng Ban TCTƯ phải trực
tiếp làm việc và phải được sự nhất trí với lãnh
đạo tối cao. Còn cỡ như Trần Đĩnh thì do A25 Bộ Công
an quản lý, có thể phối hợp với Vụ cán bộ của Ban
TCTƯ. Ông Lê Đức Thọ là một cán bộ tổ chức tối
cao của Đảng, có tài khuynh đảo, ngay cả chính khách
tầm cỡ quốc tế cũng không lay chuyển được. Trần
Đĩnh chưa là gì để ông Lê Đức Thọ phải mất thì
giờ săn đón con ngựa non ngỗ ngược này bằng cách đưa
ra mấy lời trách cứ vẩn vơ: “Sao chúng nó lại bắt
cậu đi cải tạo? Làm như thế chỉ tổ gây bất mãn!”
và dọa “sẽ cho bắt thằng Lưu Động”! Để gài bẫy
Trần Đĩnh chăng? Trong khi một cái gật hay lắc của ông
mọi sự đều thay đổi. Thực tế là những người được
ông Lê Đức Thọ chọn mặt giao việc đều hoàn thành
nhiệm vụ trước ông. Nếu như ông đặt Trần Đĩnh vào
hàng “trí thức điển hình” nghĩa là ông đã sớm nhìn
ra đây là một trí thức “điển hình phản bội”
Bốn
là:
Sau
ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, vào
TPHCM, Trần Đĩnh giả giọng nhân nghĩa huyênh hoang giữa
những người thân rằng: “Nếu có quyền thì làm hai
điều: Thứ nhất là mời LHQ đến, dựng một lễ đài
nổi ở mạn biển Vũng Tàu, đem ba cái LCT* chở xe tăng,
đại bác, súng ống của cả Liên Xô, Trung Quốc và Mỹ
long trọng làm lễ vĩnh biệt vũ khí, quăng tất cả xuống
nước, xin LHQ giúp cho chúng tôi từ nay làm ăn xây dựng!
Thứ hai là xin cả nước để ba ngày róng chuông nhà thờ,
chuông chùa làm lễ cầu siêu thoát cho tất cả vong linh
đã chết trong cuộc chiến tranh này, rồi cùng nhau tu sửa
mọi nghĩa trang”. Ông Trần Đĩnh có giả đui điếc
không? Vào thời điểm đó ông chưa thể lú, lại là
người làm báo có tay nghề bài bản, hẳn không thể
không biết ngay sau khi ký hiệp định Paris ai đã lôi kéo
lũ phản bội Khmer đỏ quay giáo đâm sau lưng QGPVN đồng
thời đưa quân tràn qua hàng ngàn kilômét đường biên
giới, cướp phá nhà cửa hoa màu, giết hại hàng ngàn
vạn đồng bào ta, mở rộng cuộc chiến tranh bản chất
là “khủng bố” của những kẻ phản bội ở cả hai
đầu đất nước? Cùng lúc lũ phỉ FULRO* ở Tây Nguyên
trỗi dậy kết hợp với đám tàn quân thất trận nuôi
chí phục thù “chuyển lửa về quê hương”? Tất cả
đều có sự tiếp tay độc ác của người Mỹ! Song hành
với chính sách kích động nhân tâm và cấm vận nghiệt
ngã cũng do người Mỹ chủ xướng kéo dài hàng chục năm
càng làm cho dân tình khốn đốn, có lúc tưởng như là
bế tắc? Chỉ có kẻ mất trí mới quẳng vũ khí đi, hai
tay chắp ngực ngồi yên cho lũ phản bội tay sai “cáp
duồn”! Việc hòa hợp hòa giải dân tộc thực chất
cũng là mục tiêu của sự nghiệp giải phóng nên đã
không hề có “cuộc tắm máu” như các thế lực xấu
luôn tuyên truyền hù dọa và thực lòng mong muốn, càng
chứng tỏ bản chất chính nghĩa và nhân đạo của cuộc
chiến tranh giải phóng do ĐCSVN lãnh đạo. Còn như việc
có những trại cải tạo tập trung là điều từng thấy
trong bối cảnh chiến tranh, đặc biệt lúc xã hội rối
ren phức tạp sau một cuộc chiến khốc liệt kéo dài.
Hãy nhìn qua bên kia biên giới tây-nam cùng thời điểm ấy
và hãy xem lại tư liệu sau Thế chiến thứ Hai, sự đối
đầu dù chỉ một thời gian ngắn mà sự trừng phạt của
những người chiến thắng với lũ tay sai phản quốc khốc
liệt tới mức độ nào? Một cuộc chiến tranh xâm lược
kéo dài 30 năm không dễ một lúc xóa nhòa những gì là
chân-giả, thiện-ác. Thời gian càng lùi xa, ranh giới phân
ly xã hội ngày càng sáp lại gần nhau, mối giao lưu giữa
cộng đồng dân tộc ngày càng thân thiết, đã có không
ít những cuộc hôn nhân quốc-cộng kết sui gia rất là
hạnh phúc. Tuy nhiên điều chính-tà vẫn là cần trong nền
tảng giáo dục truyền thống Việt Nam. Khi ai đó đọc
lên câu thơ hào sảng: “Người lính già đầu bạc/ Ngồi
kể chuyện nguyên phong” đều nghĩ đây là người lính
trong đội quân “Sát Thát” của Hưng Đạo Đại vương
ngày nào, bởi trong tâm thức người Đại Việt, đám tàn
quân Trần Di Ái, Trần Ích Tắc… đã tự chôn vùi trong
lớp bụi thời gian.
Không
lạ gì những kẻ phá quấy cứ ra sức thổi phồng mãi
lên những hiện tượng phức tạp thời hậu chiến gọi
là “cuộc khủng bố đỏ”. Đáng khinh là những kẻ
“ăn theo”! Đành rằng giới hữu trách có những sai lầm
không nhỏ trong việc quản lý kinh tế, tổ chức xã hội…
càng làm những khó khăn thêm chồng chất. Nước Mỹ thời
sau nội chiến từng lâm vào cảnh: “Toàn bộ cuộc sống
chỉ là làm thế nào để khỏi chết”! Và từ lời gợi
ý của một nhà lãnh đạo cấp cao: “Mỗi người hãy tự
cứu lấy mình!” ta có thể suy ra bối cảnh xã hội Việt
Nam lúc đó ra sao? Trong tình cảnh ấy, những người
tù sống qua được trong những trại cải tạo cũng như
những người vì sự mưu sinh đã thoát khỏi lưỡi hái
của tử thần giữa trùng dương sóng nước thật là điều
rất may cho họ và hôm nay cả xã hội cùng chia vui với
họ! Đấy là nỗi đau, là trang sử buồn có điều tránh
được và cũng có điều khó tránh. May thay lịch sử chỉ
diễn ra có một lần!
Ai
đó nói rằng sau 30 tháng Tư, hàng triệu người sung sướng
thì cũng có hàng triệu người đau khổ là quay lưng lại
với những người từng che chở cưu mang họ khi còn trứng
nước. Hòa bình đến với mọi nhà. Ngoài những “ông
quan mới”, nhân dân cả nước vẫn trong cảnh khốn khó
trăm bề bởi đủ thứ di họa của chiến tranh, đặc
biệt là nhân dân vùng căn cứ kháng chiến và những
người từng hết lòng khi đất nước gian lao. Một Đại
tá nguyên là sỹ quan an ninh quân đội Sài Gòn, sau 12 năm
cải tạo được trở về kể chuyện như sau: “Ngày ra
trại cùng lúc được trả quyền công dân nghĩa là hai
bên bình đẳng. Chúng tôi tới chào ban quản giáo. Thực
ra ở lâu thì cũng có chút tình, thay mặt anh em tôi tỏ
lời cảm ơn và nói thật rằng: Dù sao anh em chúng tôi so
với trước đây thì quá khổ là lẽ tất nhiên rồi
nhưng so với các anh thì chưa chắc ai khổ hơn ai! Anh
trưởng trại đáp nửa chơi nửa thật rằng: Rất mong
cấp trên sớm giải quyết xong chuyện này cho chúng tôi
được thoát “nợ”! Các anh tù trong còn chúng tôi tù
ngoài mà lại còn phải lo bao nhiêu là trách nhiệm”.
Năm
là:
Ông
Trần Đĩnh kể rằng tại Đại hội IV của ĐCSVN, nhà
thơ Chế Lan Viên hơi buồn vì không trúng vào BCHTƯ của
Đảng mặc dù Tố Hữu cố đôn lên nhưng do một đại
biểu Bình Định phát hiện Chế thi nhân thời trai trẻ
từng đi ủng Nhật, thắt khăn trắng mặt trời to quanh
cổ, ủng hộ Đại Việt và Trần Đĩnh đế vào: “Nói
cho công bằng thì đâu đã bằng Phạm Ngọc Thạch được
Nhật cấp hàng nghìn cây súng cho Thanh niên Tiền Phong”!
Chuyện Chế Lan Viên thực hư thế nào người viết hoàn
toàn không biết, chỉ xin giới thiệu với quý bạn đọc
một đoạn trích trong Hồi ký Trần Văn Giàu 1940-1945 như
sau: “Tụi Nhật ở Nam kỳ không biết Phạm Ngọc Thạch
là đảng viên cộng sản, nên Minoda và Ida đã đề nghị
ông đứng ra tổ chức Thanh niên Tiền phong. Sau lưng ông
bác sỹ tây học, vợ đầm này là một xứ ủy đang tìm
kiếm một hình thức tổ chức và hoạt động của thanh
niên không đi theo phương hướng chính trị Đại Đông Á
mà theo phương hướng chính trị yêu nước và độc lập
dân tộc. Nếu không được Hà Huy Giáp và Trần Văn Giàu
ủng hộ thì một đồng chí có tài ba nhân cách như Phạm
Ngọc Thạch chẳng chịu đứng ra làm việc ấy đâu”.
Thực tế là tổ chức TNTP đã có vai trò tích cực trong
việc xây dựng lực lượng vũ trang Nam bộ những ngày
đầu kháng chiến. Chuyện xảy ra năm 1945 ở Sài Gòn thời
Nhật đảo chính Pháp, lúc đó thằng bé Trần Đĩnh mới
15 tuổi đang ở Hà Nội, dù có hăm hở chạy theo lớp
cha anh đi cướp chính quyền nhưng đã biết chuyện gì
xảy ra cách đó hàng ngàn cây số đâu mà xưng xưng mọc
mọc ghi vào cái gọi là tự truyện! Dẫn tư liệu để
bạn đọc thấy có thể tin một người nhân danh đứng
trong đội ngũ nhà báo cách mạng lâu năm mà gặp đâu
nói đấy tùy theo cái lòng dạ u ám của mình với tổ
quốc nhân dân và cả với những bạn bè lớn bé từng
qua lại ân tình chia sẻ với mình?
Sáu
là:
Trần
Đĩnh kể một lần đi sơ tán qua bến phà Trung Hà, Phú
Quang níu tay ông và nói: Em quý các anh xét lại! Phú Quang
biết chúng tôi phản đối chiến tranh mà đồng tình làm
tôi cảm động lắm vì lúc ấy có người dám nói rõ ra
như thế là rất hiếm. Chuyện có đúng vậy hay không thì
chưa biết. Nhưng ngay với anh em chiến sỹ ta đang từng
ngày đối mặt với quân giặc tàn bạo bằng những loại
vũ khí hủy diệt kinh người, có những lúc nằm trong hầm
sâu cũng ghé tai nhau thì thầm: Chỉ cần lũ ác quỷ cút
đi để có được độc lập thống nhất hòa bình thì dù
ăn rau ăn cháo khổ sao cũng đặng! Huống chi lúc đó Phú
Quang mới chỉ là một chú thiếu niên trường nhạc
vui vẻ trẻ trung, chưa thể hiểu sâu về bản chất của
chủ nghĩa xét lại trên bình diện thế giới khác ở
Việt Nam thế nào và nó chính là mối cản trở cho khát
vọng hòa bình độc lập tự do của nhân dân ta. Bằng
chứng là mới đây trong chương trình âm nhạc truyền
thống “Giai điệu tự hào”, ở cương vị người bình
luận có uy tín và ảnh hưởng lớn, vị nhạc sỹ hàng
đầu của nền âm nhạc Việt Nam đương đại Phú Quang,
dù đã luống tuổi nhưng nghẹn ngào không kìm nén nổi
cảm xúc khi phát biểu cảm nghĩ về bài hát “Dậy mà
đi” tiêu biểu của phong trào học sinh sinh viên miền
Nam trong thời kỳ đấu tranh kiên cường trực diện với
quân cướp nước và bè lũ tay sai bán nước giữa các đô
thị miền Nam ngột ngạt. Tinh thần bất khuất chống
ngoại xâm là truyền thống quý báu cứ âm ỷ chảy trong
lòng thế hệ này sang thế hệ khác. Dù người sáng tác
ra nó là cựu sinh viên Nguyễn Tấn Lập nay đang định cư
ở Mỹ hay một nhạc sỹ nổi tiếng bậc thầy Phú Quang
không hề nhớ rằng nếu như ngày ấy cứ làm theo những
người “xét lại” mà sợ giặc, không dám đứng lên
cầm súng chống Mỹ cứu nước thì bài hát ấy chẳng có
giá trị gì để sống mãi trong lòng các lớp thanh niên
và liệu nhạc sỹ Phú Quang có được một chỗ đứng
đáng trân trọng trong lòng công chúng hôm nay? Người quân
tử trọng sự trung-tín. Kẻ tiểu nhân đánh lộn xòng
trái-phải.
Bảy
là:
Trần
Đĩnh luôn vỗ ngực tự nhận là “người chống chiến
tranh” mà không chút mảy may xấu hổ?! Thực tế lịch
sử cho mỗi người Việt Nam chân chính nhận thức được
rằng từ giữa thế kỷ XIX đến cuối thế kỷ XX nhân
dân ta là nạn nhân của một cuộc chiến tranh xâm lược
kéo dài bởi các thế lực bành trướng phương tây. Mở
đầu là thực dân Pháp nhân danh bảo vệ những người
mở mang nước Chúa đi khai hóa văn minh cho xứ Á Đông
mông muội! Tiếp sau là đế quốc Mỹ nhân danh bảo vệ
trật tự của thế giới tự do nhận sứ mệnh “ngăn
chặn làn sóng đỏ”! Kết cục là cả hai đội quân
viễn chinh hùng mạnh nhất thời đại ấy đều thoái lui
trước đội quân giải phóng của những người yêu nước
Việt Nam từ tay không đứng dậy! Điều không thể quên
là nhân dân Pháp và Mỹ đã nhận ra tính vô đạo của
cuộc chiến tranh xâm lược do chính giới nước họ gây
ra và đã biểu lộ lòng công phẫn bằng phong trào phản
chiến rầm rộ đòi chấm dứt chiến tranh để con em họ
không chết uổng vì những lý do vô nghĩa. Cuộc đấu
tranh đòi hòa bình và công lý ấy là nguồn cổ vũ và hỗ
trợ mạnh mẽ cho cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân
dân Việt Nam đi đến thành công. Là người dân của một
nước chịu bao thảm họa của cuộc chiến tranh phi nghĩa
mà có những kẻ lạc loài mất hết lương tâm lý trí
chống lại tới cùng cuộc chiến tranh tự vệ của dân
tộc mình! Chính sách “dùng người bản xứ giết người
bản xứ” của quân xâm lược đã gây nên cảnh “nồi
da xáo thịt” lại được lũ người vong bản làm tay sai
cho ngoại bang lu loa lên rằng là “nội chiến”. Nếu
không có đội quân viễn chinh Pháp, Mỹ thì làm sao có
cái gọi là quân đội quốc gia Bảo Đại? Rồi thay vào
đó cái gọi là quân lực Việt Nam cộng hòa? Lịch sử
ghi nhận rằng kết thúc cuộc chiến tranh dai dẳng ấy
vào những ngày cuối tháng tư năm 1975, tại Sài Gòn còn
có hơn sáu ngàn người Mỹ nháo nhào leo lên trực thăng
tháo chạy để lại đội quân tay sai bản xứ tới cả
triệu người như bày chim tan tác!
Tám
là:
Đọc
hàng trăm trang cuối sẽ nhận ra những lời làm thàm ba
xạo vong ân bội nghĩa đấy ác ý với những nhà lãnh
đạo có công đầu cho đất nước hôm nay, người ta
không khỏi liên tưởng tới lời nhận xét: Văn nhân vô
hạnh! Trên dưới chẳng trọng ai. Đặt điều tùy tiện.
Đúng là một thời gian khá dài ở phía Bắc, việc tùy
tiện giao tiếp với người nước ngoài là điều cấm kỵ
nhưng tới mức nhà nào cũng kẻ khẩu hiệu:“Nhà tôi
không giao tiếp với người nước ngoài” thì chỉ là
viết cho người xa xứ xem mới dám bịp không biết ngượng
như thế! Thực ra từ khi có nghị quyết IX, lúc 25 tuổi,
Trần Đĩnh đã bị thất sủng, nghĩa là không còn vị
trí gì trong làng báo chí. Sự nghiệp vừa mở ra thì anh
ta tự đóng xập lại rồi! Tài năng lộ xuất của Trần
Đĩnh không thể sánh với người đồng trang lứa như Vũ
Thư Hiên, mà chỉ là ăn theo vài bài viết về mấy người
nổi tiếng gan dạ trước quân thù. Làm “thi bá” thì
không danh tiếng. Một nhà báo có danh ít ra cũng được
một phần của Thép Mới với những bài chính luận sắc
xảo để đời hoặc chí ít một nhà báo đàn em tỉnh lẻ
như Phùng Gia Lộc, chỉ một bài phóng sự “Cái đêm hôm
ấy hôm gì” cũng được công chúng lưu trong bộ nhớ
lâu dài. Chẳng trách người đời đã mau quên chàng trai
đẹp mã thuở nào! Thật đáng tiếc cái sắc vóc cha mẹ
sinh ra và cái tài trời phú! Mà về mánh dùng nghề báo
làm tiền lại không đáng học trò kẻ vào hàng con cháu
như loại Đức “san hô”! Thế thì có điều chi đáng
trọng để thiên hạ ghi vào bộ nhớ?! Thật sự Trần
Đĩnh đã tỏ ra hèn nên mới không bị bắt. Khi các “đồng
chí” được phóng thích, Trần Đĩnh mới bị khai trừ
Đảng bởi tổ chức đã nhận ra con người này ương
ngạnh không biết điều để ăn năn hối cải.
Ông
Nguyễn Trung Thành là một đảng viên cộng sản lão thành
đáng kính. Ông là người rất trung thành với Đảng đúng
như tên của ông và rất nhân hậu với những thân phận
lỡ bị sa cơ thất thế. Sai lầm lớn nhất của đời
ông là cố công cưu mang cứu vớt người như Trần Đĩnh
bởi bản chất tâm địa hai con người ấy hòan toàn đối
nghịch với nhau. Thật sự ông đã nhận ra điều ấy.
Vĩ
thanh:
Tập
Đèn cù được xuất bản ở nước ngoài, nghe nói không
thiếu người tung hứng. Tất nhiên đọc bài này sẽ có
một số người kháo nhau: Lại thêm một kẻ văn nô! Có
sợ chi mà không tuốt tuột gốc tích của mình: Người
viết sinh ra và lớn lên trong một gia đình viên chức
trung lưu ở Hà Nội. Thời trước CMT8, ngay như ông Phạm
Quỳnh cũng than thở: “Tôi sinh ra thì nước đã mất
rồi!”. Cha tôi tham gia “Hội viên chức cứu quốc”.
Dù chỉ là “ông phán” thân còm lẻo khẻo nhưng cũng
theo người ta đi cướp chính quyền. Khi Hà Nội nổ súng
kháng chiến, ông dắt vợ con tản cư về các vùng quê,
gõ đầu trẻ không công. Cứ thế, giặc đánh nống tới
đâu lại theo bà con lùi sâu… mãi lên rừng. Bốn năm
năm không thể sống tạm bợ mãi dưới những cái quán
tre lá nứa với ấm nước chè xanh, chõ xôi, nồi chè, lọ
kẹo, mẹt bánh… mà tương lai thì mù mịt trong khi các
con lớn dần lên mà thất học. Cha tôi lại dắt vợ con
“dinh tê” (entré) về thành mà lòng cứ lưu luyến một
việc làm dang dở. Tất nhiên vì sự sinh nhai lại phải
đi làm cho chính quyền thuộc Pháp. Khi quân Pháp thua bỏ
chạy vào Nam, cha tôi ở lại với chính phủ Cụ Hồ,
cũng là thể hiện lòng thành với nước. Sau ngày đất
nước thống nhất, tình cờ đọc dòng tâm sự của nhà
văn yêu nước lão thành Thiếu Sơn: “Bọn xâm lăng không
nhằm cá nhân tôi mà xúc phạm. Chúng đã xúc phạm tới
cả một dân tộc! Tôi thấy tôi không thể tách rời khỏi
dân tộc mà có được sự kính nể của ngoại bang”,
tôi mới hiểu ra vì sao lớp người như cha tôi cứ lẽo
đẽo theo kháng chiến dù chẳng mấy ai hiểu cộng sản
là gì ngoài một niềm tin tuyệt đối: Cụ Hồ là người
yêu nước! Hai năm đầu được lĩnh nguyên lương, gấp
hàng chục lần lương cán bộ kháng chiến trở về. Anh
em tôi còn nhỏ vui vẻ nhởn nhơ, vào đội thiếu nhi tung
tẩy hát sol, đố, mì… Khi chính quyền miền Nam tuyên bố
không có trách nhiệm với Hiệp định Genève nữa, chính
phủ Cụ Hồ để những người như cha tôi được tiếp
tục làm việc gọi là “viên chức lưu dung” và lương
được xếp tùy theo ý kiến của chi bộ mỗi nơi một
khác. Nói chung được coi là tạm tuyển, phần lớn được
xếp lương khởi sự. Cái sự khó thì tuổi trẻ vô tư
ăn chưa no lo chưa tới, chưa biết chia sẻ cùng cha mẹ.
Nhưng nỗi “khổ tâm” thì ngấm ngầm thấm dần vào
gan ruột. Cha con dần cảm nhận ra cái thân phận của kẻ
“hàng thần” cứ như cục đá đeo vào cổ cha, cột vào
chân con bằng những sự kỳ thị của xã hội và đố kỵ
của người đời, tuy không phải là tất cả. Tuổi trẻ
của tôi không thuận buồm xuôi gió: Được vào đại học
là may mà như kẻ học nhờ! Được đứng trong đội quân
“vượt Trường sơn đi cứu nước” cũng không là điều
dễ! Và tôi đã được sống để vượt qua nhiều thử
thách gian lao cũng bởi phúc nhà còn lớn. Hòa bình tưởng
được yên thân mà còn long đong lận đận trấn thủ lưu
đồn ải Bắc biên Nam, chẳng đỡ gì được lúc cha ràu
mẹ héo! Khi trút được chiếc “áo phong sương” may còn
đủ sức sinh ba đứa con đủ nếp tẻ vuông tròn hiếu
thảo! “Gặp thời thế thế thời phải thế”, đến
nay tôi có 55 tuổi Đảng – chỉ coi như là sự động
viên tinh thần với lớp người thời đó. Sinh thời cha
tôi thường nhắc lời dạy của người xưa: “Nước
loạn mới biết tôi trung. Nhà nghèo mới biết con có
hiếu”. Tôi nghiệm ra là “tôi trung, con hiếu đều rất
khổ”. Tuy nhiên nó như là cái nghiệp của mỗi người.
Con người ta không thể quyết định vận mệnh của mình
nhưng có thể quyết định cách sống của mình. Nay tôi
đã vào tuổi “cổ lai hy” và cảm thấy tạm thỏa lòng
vì được sống trong một đất nước độc lập, thống
nhất, yên ổn và người dân đang từng bước có chủ
quyền. Chỉ thương cha nửa đầu đời thì tủi phận dân
mất nước, nửa cuối đời thì âm thầm chịu đựng
khắc nghiệt của sự mưu sinh mà không biết than thở
cùng ai. Nhớ mãi lời cha dặn: “Thời buổi nhiễu nhương
sống tử tế đừng là kẻ ngu trung cũng đừng là kẻ
phản thần là rất khó”! Tôi tự an ủi mình nhờ thế
mà tôi thành người lương thiện. Hạnh phúc khởi đầu
bằng sự ấm no thì tôi đã có. Còn dân chủ tự do đó
là khái niệm đời nọ tiếp đời kia thắp đuốc đi
tìm. Tôi rất cảm phục ông Trần Chung Ngọc (1931-2014),
Tiến sỹ Vật Lý, giảng viên đại học, từng khoác áo
Trung tá QĐSG, cuối đời làm việc ở phòng nghiên cứu
ĐHWisconsin-Madison (Mỹ), giữa nỗi cô đơn đã tự mình
tìm ra chân lý lịch sử, phân biệt rõ chân-giả chính-tà,
vượt qua định kiến xã hội và tự ái cá nhân, dám nói
ra sự thật: “Nói tới cụ Hồ mà không nói tới cụ
Ngô là điều thiếu sót vì họ là những con người lịch
sử. Nhưng so sánh Hồ Chí Minh với Ngô Đình Diệm lại
là việc làm vô trí! Nam Việt Nam là chế độ do Mỹ dựng
nên, đánh thuê cho Mỹ, làm gì có “nước” để mà
“mất”, để mà “hận”. Ngày 30/4 đã đập tan chế
độ tay sai ấy, thống nhất đất nước và nay đất nước
đang tiến lên trong hòa bình xây dựng ổn định, sao cứ
khơi ra những hận thù?! Tôi là người thua cuộc nhưng
nói tới Việt Nam thắng Pháp ở Điện Biên Phủ, thắng
Mỹ ở miền Nam, tôi cũng thấy tự hào”. Đấy là người
trí thức chân chính hay nói như Khổng Tử: là người
quân tử chính danh. Tôi nghĩ những người như Bùi Tín,
Trần Đĩnh, Quang A, Chu Hảo, Tương Lai hãy nhìn tấm gương
đó mà noi.
Tôi
thành tâm nghĩ rằng lớp người CSVN tiền bối đã hoàn
thành trọn vẹn sứ mệnh lịch sử trước tổ quốc và
nhân dân, dù có những khiếm khuyết không nhỏ làm giảm
ý nghĩa giá trị nhân văn của những việc họ làm nhưng
không vì thế mà ân hận bởi cả đời tôi từng đi theo
họ. Tương lai là của các lớp người kế nghiệp. Nếu
để sự nghiệp của tiền nhân đổ vỡ họ sẽ mang tội
muôn đời và tất nhiên lịch sử sẽ đào thải họ.
Tuần
báo Văn nghệ TPHCM
Số
327+328 Thứ năm ngày 13+20 tháng 11 năm 2014
No comments:
Post a Comment